Cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam (Phần 3)

Kenneth T. Young

Trúc Lam dịch

Theo Tiengdan

Quyết định và cam kết ban đầu

Tháng 10 năm 1954 là khoảnh khắc của sự thật và là thời điểm Hoa Kỳ ra quyết định đối với Việt Nam. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng lợi ích của Hoa Kỳ ở Việt Nam và mối quan hệ của Việt Nam đối với phần còn lại của châu Á, đã đi đến kết luận rằng, Việt Nam và Đông Nam Á có tầm quan trọng then chốt đối với châu Á và lợi ích của Hoa Kỳ.

Hội đồng An ninh Quốc gia đã khuyến nghị Tổng thống theo đuổi chính sách ủng hộ một chính phủ thật sự dân tộc chủ nghĩa, được xây dựng xung quanh Ngô Đình Diệm, kết hợp cải cách và an ninh. Chính sách này được xây dựng trên hai trụ cột của sự ủng hộ từ Hoa Kỳ – một là cải cách ruộng đất rộng rãi cho nông dân, chiếm 80% dân số, và hai là chương trình huấn luyện quân sự mạnh mẽ dưới sự hướng dẫn của Mỹ, không phải Pháp, cho lực lượng an ninh Việt Nam mới nhằm đối phó với bất kỳ mối đe dọa nào từ hoạt động lật đổ hoặc xâm lược.

Kết quả cụ thể từ quyết định của Hội đồng An ninh Quốc gia và sự chấp thuận của Tổng thống Eisenhower trong bức thư nổi tiếng ngày 23 tháng 10 năm 1954 gửi Tổng thống Diệm – mà Tổng thống Johnson thường trích dẫn – đã mở đường cho một chương trình viện trợ “thông minh” của Mỹ được trao trực tiếp cho chính phủ Việt Nam. Bây giờ tôi phải cười khi đọc lại từ “thông minh” khi nhớ lại một số việc không mấy thông minh mà các nhà lập pháp và quan chức Mỹ đã làm với Việt Nam, nhưng ít nhất thì ý định của chúng tôi luôn chính đáng.

Điều quan trọng cần nhớ rằng, bức thư ngày 23 tháng 10 cho biết, việc viện trợ của Mỹ ở Việt Nam là tạm thời và có điều kiện. Dường như điều này đã bị lãng quên. Viện trợ chỉ được trao nếu chính phủ Việt Nam cam kết duy trì các tiêu chuẩn cao về hiệu quả hoạt động. Mục tiêu của chính sách Hoa Kỳ và ý định trong bức thư của Tổng thống là hỗ trợ chính phủ Việt Nam phát triển và duy trì một nhà nước mạnh, có khả năng chống lại các âm mưu lật đổ hoặc xâm lược. Chúng tôi mong muốn một chính phủ mạnh mẽ, nhạy bén, nhưng không phải là nền dân chủ kiểu Mỹ. Việc xây dựng nhà nước được ưu tiên trước, chứ không phải xây dựng quốc gia.

Hoa Kỳ hy vọng rằng, qua viện trợ của mình, kết hợp với nỗ lực của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, sẽ đóng góp hiệu quả vào việc hình thành một chính phủ mạnh, bảo vệ và duy trì một nước Việt Nam độc lập. Câu quan trọng trong bức thư của Tổng thống, viết về cốt lõi của nguồn gốc chính sách Mỹ đối với Việt Nam là:

“Một chính phủ như vậy sẽ đáp ứng mạnh mẽ các khát vọng dân tộc của người dân, với mục tiêu sáng suốt và hiệu quả trong hoạt động, để được tôn trọng cả trong nước và quốc tế, đồng thời ngăn chặn bất kỳ ai muốn áp đặt một ý thức hệ ngoại lai lên người dân tự do của quý vị”.

Câu này nhấn mạnh khát vọng của người Việt Nam về công bằng xã hội, cuộc sống tốt hơn, các thể chế do chính họ lựa chọn và độc lập dân tộc, không chịu sự kiểm soát nào từ bên ngoài. Bức thư đặt ra mục tiêu phát triển xã hội sáng suốt, không chỉ là kiểm soát quân sự, như phương tiện tốt nhất để ngăn chặn sự lật đổ hay xâm lược của cộng sản.

Nếu miền Nam trở thành một “nam châm hút Hà Nội” bằng cách thực hiện cách mạng dân tộc ở các làng xã, trong quân đội và các đô thị nông dân và công nhân ở miền Bắc, sẽ thúc đẩy các cải cách tương tự ở đó. Chế độ độc tài cộng sản có thể thay đổi từ bên trong. Cuối cùng, “nam châm chính trị” có thể kéo hai nửa Việt Nam bị chia cắt lại với nhau, nếu mỗi bên tuân theo một chính sách quân sự không xâm lược và không cố gắng lật đổ bên kia bằng vũ lực. Ít nhất, một chương trình chính phủ khả thi, cải cách xã hội và chủ nghĩa dân tộc hiệu quả sẽ giúp Sài Gòn có thể cạnh tranh trên cơ sở tốt hơn với Hà Nội trong các cuộc tham vấn và bầu cử theo như tuyên bố Geneva. Đây là triết lý nền tảng cho bức thư ngày 23 tháng 10, cũng như các chương trình và hành động của Mỹ sau này.

Cam kết tạm thời của chúng ta ở Việt Nam bắt đầu từ bức thư đó. Hai bộ chỉ thị bí mật đã triển khai nó. Thứ nhất, chúng tôi gửi các chỉ thị tới các đại sứ quán của mình ở Sài Gòn và Paris để thực hiện các chính sách của Hội đồng An ninh Quốc gia; cụ thể là ủng hộ và khuyến khích lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa của Ngô Đình Diệm và các thể chế chính trị mới, thúc đẩy cải cách nông thôn tại các làng xã, xây dựng một lực lượng quân đội và cảnh sát nhỏ, tiếp quản việc huấn luyện các lực lượng an ninh này từ tay người Pháp và thương lượng một thỏa thuận thực thi chính sách với người Pháp.

Ông Kenneth T. Young (áo vest đen, bên phải) chụp năm 1970, tại Tòa Thánh Cao Đài ở Tây Ninh. Ông có râu dài đứng ở hàng trên là ngài Bảo Đạo – Hồ Tấn Khoa. Nguồn: Ảnh tư liệu gia đình của GS Stephen B. Young gửi Tiếng Dân

Công cụ thứ hai liên quan đến nhân sự. Tổng thống đã chọn Tướng Lawton Collins để nhận nhiệm vụ tạm thời ở Sài Gòn, nhằm nhanh chóng triển khai các chương trình cấp bách, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh và huấn luyện quân sự, và phối hợp với người bạn cũng là cựu đồng sự quân sự, Tướng Paul Ely, một sĩ quan xuất sắc, khi đó là Cao ủy Pháp tại Sài Gòn.

Bức thư chỉ thị từ Tổng thống gửi Tướng Collins mượn hình thức và ngôn ngữ từ bức thư của Tổng thống Truman gửi Tướng Marshall khi ông sang Trung Quốc, đồng thời tích hợp nội dung các chỉ thị của Hội đồng An ninh Quốc gia gửi Sài Gòn và Paris, cùng với đường lối chung trong bức thư của Tổng thống gửi Diệm ngày 23 tháng 10. Khi Tướng Collins và đội đặc nhiệm của ông đến Sài Gòn đầu tháng 11, và khi Thủ tướng Pháp, M. Mendes-France, sang Washington giữa tháng 11, một chính sách Mỹ toàn diện đã được ghi nhận một cách chính thức.

Chính sách dân tộc chủ nghĩa gắn với cải cách – “nam châm” – đã đặt ra một câu hỏi quân sự nghiêm túc về mặt lý thuyết. Liệu sự xâm lược hay hành động hiếu chiến của cộng sản có xảy ra không? Chúng ta có phải chiến đấu ở miền Nam Việt Nam không? Cam kết quân sự thực tế của chúng ta là gì và phản ứng quân sự cụ thể nên ra sao trong trường hợp cộng sản xâm lược hoặc chiến tranh thông qua hoạt động xâm nhập có xảy ra không? Cam kết của chúng ta có được thực hiện tự động khi chính phủ Việt Nam yêu cầu, hay chỉ mang tính đơn phương, phụ thuộc vào quyết định thực dụng của các nhà chức trách Mỹ tại Washington? Theo tôi, nó luôn là một sự kết hợp khá mơ hồ giữa nghĩa vụ đạo đức và cần thiết chiến lược.

Chúng ta không bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi bất kỳ hiệp ước hay luật lệ nào để tự động đưa lực lượng sang chiến đấu ở Việt Nam. Mặt khác, các cam kết của chúng ta theo SEATO và nhiều tuyên bố của Tổng thống Eisenhower (sau đó là Tổng thống Kennedy và Johnson) đều tạo thành một cam kết gần như đã định sẵn. Hoa Kỳ đã khởi xướng và tham gia thiết lập cho mình cơ sở hiệp ước theo SEATO để thực hiện hành động quân sự ở Việt Nam nếu độc lập của nước này bị đe dọa nghiêm trọng bởi lật đổ hoặc xâm lược, và nếu chính phủ Hoa Kỳ quyết định, theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam, thực hiện hành động quân sự.

Tuy nhiên, ngay cả khi chính phủ Việt Nam có yêu cầu, về mặt pháp lý Hoa Kỳ vẫn có thể từ chối các hành động đó nếu đó là quyết định của Tổng thống. Ngược lại, nếu Tổng thống làm suy yếu hoặc từ chối nghĩa vụ đạo đức này, hậu quả ở Việt Nam và Đông Nam Á sẽ tạo ra một cú sốc lớn. Các phiên điều trần của Thượng viện về Hiệp ước, ý kiến tư vấn và sự đồng thuận của Thượng viện, cùng với thông cáo đầu tiên do các Bộ trưởng Ngoại giao SEATO đưa ra vào tháng 2 năm 1955, đã tạo thành một nghĩa vụ không chỉ cung cấp thiết bị và tư vấn cho Việt Nam mà còn cam kết đưa lực lượng quân sự của chính chúng ta đến đó để bảo vệ sự sống còn và độc lập của nước này.

Trên thực tế, vào năm 1954, chính quyền Eisenhower đã sẵn sàng một cách có điều kiện để cam kết và sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Đông Dương.

Về nguồn gốc, chính sách của chính phủ Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ Việt Nam tự do được thực hiện không chỉ phù hợp với khái niệm chiến lược về tính không thể chia cắt của châu Á, mà còn dưới sự bảo hộ của các cam kết quân sự tiềm năng theo Hiệp ước Phòng thủ Đông Nam Á (SEATO). Chương trình viện trợ kinh tế và quân sự lớn cho Sài Gòn để thực hiện chính sách “nam châm” và các nghĩa vụ quân sự gián tiếp của chúng ta ở đó bổ sung cho nhau.

Sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi Mỹ tham gia sâu vào Việt Nam mà không có một khái niệm chiến lược hoặc cơ sở pháp lý qua hiệp ước. Ngược lại, “chiếc ô bảo vệ” cho miền Nam Việt Nam sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có nỗ lực của Mỹ và các đồng minh để giúp tạo dựng ý chí nội bộ, sức mạnh chính trị và sự phát triển kinh tế, mục tiêu của “nam châm”. Sẽ là một sai lầm trong việc sử dụng nguồn lực của Mỹ nếu chúng ta không chuẩn bị trước để sử dụng lực lượng của mình khi không còn lựa chọn nào khác.

Cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng SEATO vào tháng 2 năm 1955, sau khi cả tám thành viên phê chuẩn Hiệp ước, đã xác nhận chiếc ô bảo vệ của các đồng minh và của chính chúng ta đối với Việt Nam. Điều IV của Hiệp ước chỉ yêu cầu tham vấn các thành viên, trong trường hợp của Việt Nam, nhưng mục đích của việc tham vấn là quyết định hành động. Chúng ta không mong muốn chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, nhưng trong những năm đầu, chúng ta luôn cân nhắc nghiêm túc khả năng này.

Trong năm đầu tiên ở Việt Nam, 1954-1955, chúng ta di chuyển nhanh để khởi động cải cách dân tộc chủ nghĩa. Ngày 1-1-1955, thỏa thuận với Việt Nam về việc phân phát đô la và các viện trợ khác trực tiếp tới Sài Gòn, không qua Paris, chính thức có hiệu lực. Cải cách điền địa, trụ cột trung tâm của chính sách “nam châm”, bắt đầu vào tháng 1 và tháng 2 khi chính phủ Việt Nam ban hành hai sắc lệnh cơ bản nhằm cải thiện phúc lợi cho người thuê đất, bằng cách giảm tiền thuê, bảo đảm quyền sử dụng đất và khai hoang đất mới. Những biện pháp này nhằm giảm căng thẳng giữa địa chủ và người thuê đất, củng cố cộng đồng nông thôn và hạn chế ảnh hưởng của chế độ phong kiến địa chủ. Chúng tôi hy vọng rằng một cuộc cách mạng nông thôn thật sự sẽ diễn ra ở miền Nam Việt Nam và sẽ hấp dẫn nông dân ở cả Việt Nam, miền Bắc lẫn miền Nam.

Ngày 12 tháng 2, chúng ta tiếp nhận việc huấn luyện lực lượng quân sự Việt Nam từ người Pháp và bắt đầu quá trình then chốt nhằm tạo ra trách nhiệm và khả năng của Việt Nam trong việc chống lại sự xâm nhập của cộng sản ở nông thôn và xuyên biên giới. Tôi nói đây là một hoạt động then chốt vì chính tại đây chúng ta đã mắc phần lớn các sai lầm, bởi chính sách của chúng ta ở Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và tinh thần của lực lượng quân sự Việt Nam.

Ngày 7 tháng 3 năm 1955, chúng ta ký một thỏa thuận mới về hỗ trợ kinh tế với Việt Nam. Lúc đó, chúng ta bắt đầu một chuỗi chương trình viện trợ hàng năm, mà khi đó có vẻ rất lớn, lên tới hơn 200 triệu USD. Nhiệm vụ của Tướng Collins là phối hợp thực hiện ba bên tất cả các chính sách và chương trình này. Các ủy ban liên hợp được thành lập về cải cách ruộng đất, tổ chức lại hành chính, huấn luyện quân sự và an ninh, giáo dục và lao động, thậm chí cả các vấn đề văn hóa. Nhiều động lực lớn được tạo ra trong các văn phòng và nhiều kế hoạch tốt đã được đánh máy.

Tiếc thay, sự phản đối và những mưu mô ngày càng tăng ở Sài Gòn gần như làm sụp đổ chính sách và nỗ lực của chúng ta.

(Còn tiếp)

_____

Bài liên quan:

Phần 1, Phần 2