Phải chăng Chủ nghĩa Mác Lê góp phần làm hủy hoại văn hóa dân tộc (Phần 2)

Nguyễn Đình Cống

Theo Tiengdan

III. Vài câu hỏi và trả lời

Hỏi 1: Tại sao có thể phê phán CNML trong khi Đảng Cộng sản (ĐCS) cầm quyền chủ trương kiên trì nó, xem là kim chỉ nam của mọi hành động?

Trả lời: ĐCS chủ trương như vậy là một sai lầm từ trong bản chất, không những làm suy thoái văn hóa, mà còn kìm hãm sự phát triển cần có của dân tộc. Trong việc đổi mới kinh tế, Đảng đã từ bỏ một phần CNML, chấp nhận kinh tế tư nhân. Có nhiều ý kiến đề nghị, cùng với đổi mới kinh tế, cần đổi mới về chính trị mà chủ yếu là từ bỏ những nội dung độc hại, không phù hợp của CNML, từ bỏ độc quyền đảng trị. Thế nhưng, lực lượng bảo thủ trong Đảng còn thắng thế nên chưa làm được.

Hỏi 2: CNML có những độc hại như vừa kể, đó là từ thực tiễn rút ra. Nhưng sẽ giải thích như thế nào về mục đích rất tốt đẹp mà nó hướng tới là xây dựng chủ nghĩa cộng sản như mơ ước của nhân loại?

Trả lời: Câu hỏi vừa đặt ra là một ngụy biện đánh tráo. Chủ nghĩa cộng sản là thứ chỉ mới có trong đầu óc tưởng tượng của một số ít người, dùng để tuyên truyền. Sự tốt đẹp của nó chỉ là cái bánh vẽ mà bất kỳ một người nào cũng có thể nghĩ và nói ra được khi muốn lôi kéo những người vô minh, nhẹ dạ cả tin, đi theo mình. Những người đi theo đó, ngoài số đông là vô sản còn có một số trí thức, vì bị hấp dẫn bởi lý tưởng tốt đẹp của cộng sản, nhưng càng theo càng nhận ra lý tưởng đó chỉ là ảo tưởng nên đã nhận thức lại và từ bỏ.

Có một số lại nhận thấy theo cộng sản sẽ giúp họ đạt được những lợi lộc to lớn nên ra sức tuyên truyền để lôi kéo những người khác, đó là bọn cơ hội đáng khinh.

Câu “Chủ nghĩa cộng sản là mơ ước của nhân loại” là một ngụy biện. Nếu trong nhân loại có một số kẻ mơ ước như vậy thì chỉ là vài người vô sản ngây thơ mà thôi. Viết, nói câu ấy không dựa vào một chứng cứ nào cả, vậy đó là lời bịa đặt.

Hỏi 3: Trên kia có viết: CNML là một trong những nguyên nhân…, vậy còn nguyên nhân nào khác?

Trả lời: Một kết quả thường do kết hợp của một vài nguyên nhân tác động đồng thời. Theo “nhận thức luận” thì có Nhân và Duyên là hai yếu tố cơ bản.

Ngoài sự độc hại của CNML thì phần còn lại gây nên sự hủy hoại văn hóa là một số tiêu cực trong truyền thống dân tộc. Truyền thống này có nhiều tích cực, nhưng không tránh khỏi một số tiêu cực như dân trí về chính trị còn quá thấp, người dân đã quen sống trong môi trường thiếu dân chủ và sùng bái cá nhân, tính tham lam ích kỷ, tính dễ tin và lệ thuộc vào chính quyền, ít dược tiếp xúc và hưởng nền tự do dân chủ, thói chuộng hư danh, xuề xòa với dối trá v.v…

Sự kết hợp của hai nhân tố (độc hại của CNML và tiêu cực trong truyền thống) là hoàn toàn tự động và có lúc không những chúng kết hợp mà còn cộng hưởng làm tăng mức độ tác dụng. Không ai tự giác tạo ra sự kết hợp hoặc cộng hưởng này, không ai điều khiển quá trình này, nó tự sinh ra và phát triển.

Thực ra CNML đã du nhập vào nhiều nước, nhưng nó không thể bắt rễ được ở những nơi có dân trí cao vì người ta nhận ra ngay các độc hại của nó.

Riêng việc trong truyền thống dân tộc có một số tiêu cực nhưng nếu không gặp phải CNML mà gặp được những người có tài năng, có đạo cao đức trọng làm lãnh đạo, quản lý, tạo ra được chính quyền trong sạch, vững mạnh thì những tiêu cực cũng dễ bị phát hiện và ngăn cấm.

Trong hai yếu tố: A- độc hại của CNML và B- tiêu cực trong truyền thống thì: Khi đứng ở góc độ dân tộc mà xét B là nhân và A là duyên, còn đứng ở vị trí của cộng sản mà xét thì A là nhân, B là duyên.

Hỏi 4: Ở Việt Nam đã có thời kỳ đề lên rất cao chủ nghĩa Mác trong văn hóa, nay xem ra tác giả nói ngược lại, tại sao vậy?

Trả lời: Không chỉ về văn hóa. Trong những nước do cộng sản cầm quyền, Mác được tôn sùng về mọi hoạt động của xã hội, được những người cuồng tín đeo cho ông cái mặt nạ “đại vĩ nhân, đại thiên tài”. Khi mặt nạ đó bị bóc đi, Mác lộ ra là một con người nguy hiểm.

Ở Việt Nam từ năm 1943, ông Trường Chinh, lúc đó là Tổng bí thư đảng Cộng sản Đông Dương, viết Đề cương về văn hóa Việt Nam. Đề cương đó được viết ra dưới “Ánh sáng của CNML” với phương châm của văn hóa là Dân tộc, Khoa học, Đại chúng. Tháng 11 năm 1946, tại Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất. Hội nghị có nói qua phương châm của văn hóa.

Từ ngày 16 đến ngày 20-7-1948, tại Chiến khu Việt Bắc, ông Trường Chinh chủ trì Hội nghị về văn hóa và đọc báo cáo: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam. Sau đó báo cáo được in thành sách, được những người ngưỡng mộ đánh giá là “Tài sản quý và có giá trị”. Ông Trường Chinh sau này là Tổng bí thư đảng Lao động VN (1951-1956), Chủ tịch Quốc hội (1960-1976), chủ tịch nước (1981- 1987). Ông mất năm 1988, thọ 81 tuổi.

Xem như vậy thì biết rằng chủ nghĩa Mác được đề cao một thời gian là chuyện bình thường. Trước đây tôi cũng nghe theo ông Trường Chinh và ca ngợi Mác, nhưng gần đây thực tế cuộc sống đã giúp tôi giác ngộ và nhận thức lại, tôi đã vạch ra những sai lầm của Mác từ gốc chứ không phải chỉ trong lĩnh vực văn hóa.

IV. Giải pháp tình thế chấn hưng văn hóa

Nền văn hóa được hình thành trong hàng ngàn năm, bị hủy hoại trong thời gian ngắn. Có được nền văn hóa đó phải tốn nhiều công sức và thời gian, nhưng hủy hoại nó chỉ cần sự sai lầm của một số người độc tài nắm quyền lực tối cao và trong thời gian ngắn đã có thể hủy hoại nhiều thứ.

Nếu nhân và duyên như vừa viết ở trên là đúng thì phải tìm cách hạn chế đến loại bỏ chúng. Loại được cả hai là quá tốt. Nhưng nếu chưa thể làm việc đó thì tìm cách loại hoặc hạn chế một trong hai. Loại những tiêu cực trong truyền thống, nói thì dễ nhưng làm được có kết quả là rất khó, cần thời gian dài. Hơn nữa, nếu vẫn còn thể chế chuyên chính vô sản thì các tiêu cực chỉ tăng chứ rất khó giảm.

Loại bỏ CNML, loại bỏ sự độc tài đảng trị cũng không dễ chút nào vì trước hết phải đổi mới được chế độ chính trị, mà chế độ đó đang được những lực lượng vũ trang hùng mạnh bảo vệ vơi phương châm “còn chế độ, còn mình”.

Như vậy, đối với dân tôc Việt Nam, chấn hưng văn hóa là cần nhưng chưa thể tiến hành ngay để có kết quả tốt đẹp được. Nếu cố bày ra mà làm thì có nhiều khả năng tiêu tốn một số năng lực, tiền của, thời giờ để thay cái sai này bằng cái sai khác, có thể còn tệ hại hơn. Đặc biệt nguy hiểm là giao việc, giao tiền vào tay những kẻ vừa tham lam mà lại hữu danh vô thực (như phần lớn các trí thức, cán bộ của Đảng). Cải cách giáo dục trong mấy năm qua là một dẫn chứng, càng cải cách, càng phá nát.

Đối với dân tộc Việt, điều cấp thiết là “Dân chủ hóa đất nước” bằng những biện pháp hòa bình nhằm đổi mới thể chế chính trị. Chỉ khi đã có thể chế dân chủ đúng nghĩa, có nền giáo dục nhân bản thì văn hóa sẽ tự phục hưng dần mà không cần chi nhiều tiền. Không cần chi nhiều tiền nhưng rất cần có những nhà văn hóa, những nhà tư tưởng lớn được Nhân dân và Nhà nước công nhận, vinh danh.

Trong lúc buộc phải chấp nhận, chưa thể nào thay đổi thể chế mà muốn chấn hưng văn hóa thì chỉ có thể dùng một vài giải pháp tình thế (chưa thể triệt để). Đó là:

1- Xây dựng nền văn hóa cầm quyền;

2- Đấu tranh để thực hiện dân quyền, nhân quyền theo Hiến pháp;

3- Đưa việc cải cách giáo dục vào đúng quỹ đạo nhân văn;

4- Ngăn cấm, xóa bỏ một số hoạt động không hiệu quả.

5- Hình thành, củng cố đội ngũ trí thức tinh hoa của dân tộc.

Riêng đối với Đảng Cộng sản, như đã viết ở mục 1.1, nếu họ trung thành với Tuyên ngôn Cộng sản do Mác và Engel công bố năm 1848, theo chủ thuyết “Tam vô” và theo phương châm “Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành”, thì có thể không cần quan tâm đến sự hủy hoại văn hóa dân tộc.

(Còn tiếp)

_____

Bài liên quan:

Phần 1