Lẽ nào tự hào lại giống như… tự sát?

Trân Văn

Theo Nguoi-viet

Cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền của Việt Nam đang cùng đồng ca, rằng thì là… Việt Nam sẽ trở thành “quốc gia phát triển, thu nhập cao” vào năm 2045 và bệ phóng để vọt lên, chạm tới mục tiêu này là bốn… nghị quyết: Một về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (số 57). Một về hội nhập quốc tế (số 59). Một về đổi mới công tác xây dựng, thi hành pháp luật (số 66). Một về phát triển kinh tế tư nhân (số 68).

Công nhân làm việc trong một xưởng may ở tỉnh Thái Nguyên của Việt Nam. Các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chỉ sử dụng mặt bằng (thuê đất), nhân công nội địa để gia công sản phẩm. (Hình minh họa: NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Bởi ai cũng đã biết về tính khả thi, mức độ hữu dụng của các… nghị quyết nên kẻ viết bài này xin miễn bàn về điều đó. Tuy nhiên do ngứa cả tai, mắt lẫn miệng nên mạo muội xin phép được trình bày thiển ý về chuyện thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Minh Chính, khoe (tổng thương mại Việt Nam vừa đạt $801 tỷ, chính thức lọt top 15 toàn cầu, áp sát Ấn Độ) và dùng chuyện này như bằng chứng về việc Việt Nam sẽ trở thành “quốc gia phát triển, thu nhập cao” vào năm 2045…

***

Nếu chịu khó lục tìm dữ liệu cả từ các nguồn của Việt Nam lẫn ngoại quốc, hẳn có thể dễ dàng nhận ra, cả thủ tướng lẫn các cơ quan hữu trách có trách nhiệm tập hợp, công bố số liệu liên quan đến kinh tế – xã hội đã cố tình tung hỏa mù để gạt công chúng, nói theo kiểu binh dân là “lập lờ đánh lận con đen.”

“Tổng thương mại” cấu thành từ hai yếu tố là tổng giá trị hàng hóa xuất cảng (kim ngạch xuất khẩu) và tổng giá trị hàng hóa nhập cảng (kim ngạch nhập khẩu).

Trong $801 tỷ mà ông Chính đem ra khoe, có $410.3 tỷ là giá trị hàng hóa xuất cảng, phần còn lại (390.7 tỷ) là giá trị hàng hóa nhập cảng. Thiếu sự phân định rõ ràng về giá trị hàng hóa xuất cảng/giá trị hàng hóa nhập cảng/thặng dư thương mại sẽ dẫn tới ngộ nhận về thực chất của tăng trưởng kinh tế. Đó là chưa kể việc diễn giải sai lệch về bản chất dữ liệu sẽ vun xới sự lạc quan trên ẩn họa dẫn tới… chết chùm!

Tổng giá trị hàng hóa xuất cảng đạt $410.3 tỷ Mỹ là một khoản đáng kể nhưng yếu tố tạo ra khoản đáng kể này lại đáng lo vì hơn 70% khoản ngoại tệ vẫn được mang ra khoe trong vài năm vừa qua như một loại thành tích ấy thuộc về các doanh nghiệp do ngoại quốc đầu tư, hoạt động bằng hợp đồng và vốn do ngoại quốc mang vào Việt Nam nên lợi nhuận thuộc về ngoại quốc (doanh nghiệp FDI).

Các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chỉ sử dụng mặt bằng (thuê đất), nhân công nội địa để gia công sản phẩm, nộp những khoản thuế chẳng đáng là bao trên doanh thu và lợi nhận khổng lồ mà họ kiếm được. Cũng vì vậy, những người đang làm thuê ở các doanh nghiệp FDI không được hưởng gì thêm khi tổng kim ngạch xuất cảng tăng, nguồn lợi từ tổng giá trị hàng hóa xuất cảng được chuyển ra ngoại quốc cũng chẳng góp gì vào việc cải thiện mức sống của dân chúng trong nước.

Về lý thuyết, sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI ở quốc gia nào đó chỉ tạo ra tác động tích cực đến kinh tế – xã hội của quốc gia ấy nếu chính sách thật sự đúng đắn, phương thức quản trị thật sự hiệu quả và các doanh nghiệp nội địa trở thành một phần của tiến trình sản xuất hàng xuất cảng nhờ tận dụng công nghệ do các doanh nghiệp FDI chuyển giao, có thêm các đơn đặt hàng từ những doanh nghiệp FDI để mở rộng sản xuất, tích lũy nội lực và lớn mạnh theo thời gian.

Tuy nhiên đã vài thập niên, ông Chính và đảng của ông, quốc hội của ông, chính phủ của ông vẫn không thể tạo ra sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa. Những lợi ích lẽ ra phải đạt như chuyển đổi đội ngũ nhân lực từ lao động giản đơn sang lao động có kỹ thuật cao, giàu kinh nghiệm, tăng thêm nguồn thu từ sự liên kết, lớn mạnh đồng đều của cả hai bên (doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa) vẫn còn ở chân trời.

Thậm chí, tổng thương mại (tổng của kim ngạch xuất cảng và kim ngạch nhập cảng) liên tục đạt mức chưa từng có lại tỷ lệ thuận với sự lụn bại của hệ thống doanh nghiệp nội địa.

Theo Tổng Cục Thống Kê (GSO), năm 2024 có khoảng 180,000 doanh nghiệp rút khỏi thị trường (bao gồm xin tạm ngưng sản xuất – kinh doanh, thông báo ngừng hoạt động vì đang làm thủ tục giải thể, hoặc đã hoàn tất giải thể). Năm nay, theo số liệu cũng của GSO, tính đến Tháng Mười, có thêm 190,600 doanh nghiệp rút khỏi thị trường!

***

Nếu quan tâm đến các vấn đề liên quan tới kinh tế – xã hội hẳn quý vị chẳng lạ gì “China shock” (cú sốc Trung Quốc). Từ giữa những năm 1980 đến giữa những năm 2010, Trung Quốc không ngừng bày tỏ sự tự hào khi các số liệu cho thấy kinh tế vọt lên như “pháo thăng thiên.” Sự tăng trưởng gây kinh ngạc ấy dựa trên quy mô hàng hóa xuất cảng, thu hút vốn FDI càng ngày càng lớn. Thiên hạ đổ vào Trung Quốc vì các yếu tố liên quan đến chi phí sản xuất như thuê mặt bằng, thuế, giá nhân công đều rất thấp do Trung Quốc tự nguyện biến xứ sở của họ thành nơi làm thuê!

Trung Quốc chỉ nhận ra mặt trái của việc buộc chặt kinh tế – xã hội quốc gia vào các doanh nghiệp FDI và hàng hóa xuất cảng là một kiểu tự hủy hoại nếu kinh tế – thương mại thế giới gặp trục trặc, doanh nghiệp FDI thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi Trung Quốc khiến nguồn thu sụt giảm, thất nghiệp tràn lan, kinh tế suy thoái, xã hội rối loạn, dân chúng oán thán.

Lúc Trung Quốc nhận ra hậu quả khi thu nhập cá nhân, mức sống không tăng tương ứng với tăng trưởng GDP tai hại thế nào và cư xử lệch lạc giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa tai hại ra sao thì đã trễ.

Đó là chưa kể những hậu quả trầm trọng khác do cộng đồng quốc tế cùng nhận ra phải liên kết để có đối sách với “khổ nhục kế” của Trung Quốc nhằm gia tăng tối đa thâm hụt thương mại, rồi dựa trên thành quả thu lượm từ những khoản thâm hụt thương mại càng ngày càng lớn ấy mà trở thành lớn lối, hung hăng.

Vào lúc này, thiên hạ vẫn chưa thấy Trung Quốc tìm ra giải pháp nào khả thi cho tình trạng xuất cảng bị nghẽn, bất ổn và thừa đủ thứ, từ khối nợ nần của chính quyền các địa phương và doanh nghiệp, tới năng lực sản xuất, cả nhà máy lẫn bất động sản cùng đóng băng.

Cho dù suốt mười năm vừa qua Trung Quốc đã thay đổi đường hướng, đề cao “lưu thông kép,” thúc đẩy tiêu dùng nội địa, xác định đó mới là động lực chính và đầu tư vào hệ thống doanh nghiệp nội địa, phát triển chuỗi cung ứng nội địa nhưng chuyển biến rất chậm vì thiếu đủ thứ và quá tốn kém. Một số chuyên gia bảo rằng, đó là giá phải trả cho việc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng, bám vào giá trị hàng hóa xuất cảng và xem thường việc củng cố, phát triển nội lực của doanh nghiệp nội địa. Chưa biết tới bao giờ 1.4 tỷ dân Trung Quốc mới có thể ngừng trả giá cho sai lầm!

Vì nhiều lý do, Việt Nam vẫn chăm chăm hướng vào Trung Quốc, sao chép mọi thứ trong quản trị – điều hành quốc gia từ chính trị, kinh tế đến xã hội một cách thành kính. Chẳng có gì khó hiểu khi các viên chức hữu trách đang lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam hoan hỉ với “tổng thương mại” đạt mức chưa từng có, bất chấp thực trạng kinh tế – xã hội khiến dân chúng càng ngày càng tuyệt vọng cả với hiện tại lẫn tương lai. Vấn đề nằm ở chỗ ai sẽ gánh hậu quả của kiểu tự hào chẳng khác gì tự sát ấy? Lại là dân ư? [kn]

Bình luận về bài viết này