Chính sách ‘4 không’ CSVN trong vòng xoáy địa chính trị mới

Đặng Đình Mạnh

Theo Nguoi-viet

Chính sách “Bốn Không” được xem là kim chỉ nam cho quốc phòng CSVN, nhưng khi tình hình an ninh Đông Á ngày càng trở nên đầy rủi ro và nguy cơ xung đột eo biển Đài Loan – Biển Đông tăng cao, cho thấy yêu cầu bảo đảm an ninh quốc gia bằng chính sách “Bốn Không” cần phải được xem xét lại một cách nghiêm túc.

Trong bối cảnh khu vực châu Á – Thái Bình Dương chứng kiến sự trỗi dậy của các trục liên minh mới như Hoa Kỳ – Nhật Bản – Đài Loan – Hàn Quốc hoặc Hoa Kỳ – Nhật Bản – Phi Luật Tân, bên cạnh khối liên minh QUAD đã có trước đó gồm Úc Đại Lợi – Ấn Độ – Nhật Bản – Hoa Kỳ nhằm đối trọng với ảnh hưởng ngày càng bành trướng của Trung Cộng, đặc biệt là quanh vấn đề Đài Loan tại eo biển Đài Loan, Biển Hoa Đông và Biển Đông.

Quân lính CSVN diễn hành kỷ niệm ngày cướp chính quyền 2-9. Tình hình địa chính trị khu vực ngày càng bất ổn nhưng chế độ Hà Nội vẫn duy trì chính sách quốc phòng “4 không”. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images

Việt Nam, với vị thế địa chính trị then chốt, án ngữ dọc phía nam khu vực và có khả năng khống chế Biển Đông, đang đối diện với những thách thức địa chính trị vô cùng phức tạp, kể từ sau thời điểm thống nhất đất nước vào năm 1975.

Trong đó, đặc biệt chính sách quốc phòng của CSVN, nổi bật với nguyên tắc “Bốn Không”, hiện đang đứng trước một phép thử to lớn, thậm chí, với mức độ cần phải xem xét lại chính sách đó nếu không muốn đối diện với sự thất sách toàn diện về quân sự, đe dọa chủ quyền quốc gia.

Chính sách “Bốn Không” và khả năng bảo đảm an ninh quốc gia

Được hiểu, chính sách “Bốn Không” của quốc phòng CSVN bao gồm: Không tham gia liên minh quân sự; Không liên kết với nước này để chống nước kia; Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Chính sách này được Hà Nội giải trình vì mục tiêu cốt lõi là duy trì sự độc lập tự chủ chiến lược, tránh bị lôi kéo vào vòng xoáy cạnh tranh giữa các cường quốc, và bảo vệ môi trường hòa bình để phát triển kinh tế.

Chính sách “Bốn Không” trong bối cảnh hiện tại

Linh hoạt Ngoại giao (Diplomatic Flexibility): “Bốn Không” cho phép Việt Nam duy trì quan hệ cân bằng với tất cả các cường quốc, từ Trung Cộng, Hoa Kỳ, Nga đến Nhật Bản Bản và Ấn Độ. Chế độ CSVN tự cho rằng sự linh hoạt này là tài sản quý giá, giúp Việt Nam tìm kiếm sự hỗ trợ về kinh tế và công nghệ từ nhiều nguồn khác nhau.

Giảm thiểu Xung đột (Conflict De-escalation): Vẫn theo sự nhận định của chế độ CSVN, rằng chính sách này giúp giảm thiểu nguy cơ trở thành mục tiêu quân sự của bất kỳ cường quốc nào và tránh bị biến thành chiến trường ủy nhiệm trong cuộc cạnh tranh địa chiến lược.

Bài viết này chưa đánh giá hoặc phê bình gì về chính sách “Bốn Không” được chế độ CSVN thực hiện trong thời gian vừa qua, vì nó có thể là mục tiêu trong phạm vi một bài viết khác. Mục tiêu chính yếu của bài viết này chỉ đánh giá chính sách “Bốn Không” trước các diễn biến thách thức mới đang định hình an ninh địa chính trị trong khu vực Biển Đông và phạm vi rộng hơn bao gồm cả eo biển Đài Loan và vùng Biển Hoa Đông.

Thách thức đối với An ninh Quốc gia

Dù muốn hay không, cũng không thể phủ nhận rằng vị trí địa chính trị Việt Nam hiện đang tọa lạc trong một khu vực đang bị quân sự hóa nhanh chóng và nguy cơ xung đột leo thang rình rập từng ngày, thậm chí từng giờ. Điều này khiến cho sự trung lập chiến lược từ chính sách “Bốn Không” của chế độ Hà Nội ngày càng trở nên mong manh, thậm chí thất sách một cách toàn diện:

Khoảng cách năng lực quân sự: Sự xung đột quân sự tiềm ẩn tại eo biển Đài Loan hoặc ở Biển Hoa Đông sẽ khiến cho môi trường an ninh tại Biển Đông trở nên cực kỳ bất ổn. Trong đó, dù có nỗ lực hiện đại hóa, khoảng cách về năng lực quân sự giữa Việt Nam và một số cường quốc vẫn là một thực tế không thể xóa nhòa trong tương lai gần.

Mối đe dọa từ “Vùng Xám” (Grey Zone Tactics): Chính sách “Bốn Không” chủ yếu giải quyết các mối đe dọa quân sự truyền thống. Tuy nhiên, Việt Nam hiện đang phải đối phó hàng ngày với các hoạt động theo chiến thuật “vùng xám” của Trung Cộng ở Biển Đông (như các hành động của tàu hải cảnh, hoạt động của tàu thăm dò địa chất, hoặc của các tàu dân quân biển đội lốt tàu đánh cá).

Chúng là những hành động nằm dưới ngưỡng xung đột vũ trang nhưng liên tục xâm phạm chủ quyền. Chính sách “Không sử dụng vũ lực” của CSVN có thể khiến Việt Nam bị hạn chế trong việc phản ứng mạnh mẽ trước các hành vi (vùng xám) xâm lấn một cách thường xuyên và có chủ đích này.

Mối đe dọa trực tiếp: Chưa kể đến khả năng xảy ra xung đột, vì chiến thuật, quân đội của một cường quốc đột ngột đổ quân vào lãnh thổ, thì chế độ CSVN sẽ đối phó như thế nào?

“Cái giá” của Trung lập: Khi căng thẳng gia tăng, các cường quốc lớn sẽ tăng sức ép buộc các quốc gia nhỏ phải chọn bên. Khả năng một cuộc xung đột lớn làm gián đoạn nghiêm trọng thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu là rất cao. Lúc đó, sự trung lập mà CSVN đang chủ trương có thể bị xem là hành động không quyết đoán, làm suy yếu uy tín và khả năng đàm phán của Việt Nam.

Trong kịch bản xung đột tại eo biển Đài Loan, Biển Hoa Đông leo thang, việc duy trì chính sách “Bốn Không” sẽ trở thành một hành động cân bằng cực kỳ mong manh. Mặc dù tưởng rằng nó giúp tránh bị lôi kéo trực tiếp, nhưng lại không thể ngăn chặn các tác động lan tỏa từ chiến trường lên khu vực Biển Đông, đe dọa trực tiếp đến an ninh hàng hải, kinh tế và cả an ninh lãnh thổ của Việt Nam.

Trước viễn cảnh đó, chính sách “Bốn Không” trở nên hoàn toàn thất sách, không thể bảo đảm được an ninh quốc gia nếu không có một chiến lược thích ứng.

Đề xuất chiến lược “Bốn Cộng”

Để đảm bảo an ninh quốc gia trong một môi trường địa chính trị biến động, Việt Nam cần xem xét một sự điều chỉnh chiến lược một cách linh hoạt, giữ vững tinh thần độc lập nhưng tăng cường các công cụ răn đe. Sự thay đổi có thể không nằm ở việc từ bỏ hoàn toàn nguyên tắc “Bốn Không”, mà là thiết lập thêm nguyên tắc “Bốn Cộng” (Four Pluses), bổ sung thêm các trụ cột chiến lược.

Cộng 1 – Nâng cao hợp tác kỹ thuật quân sự

Việt Nam cần tăng cường hợp tác về công nghệ quốc phòng và mua sắm vũ khí với các đối tác chiến lược quan trọng ngoài các kênh truyền thống (Nga).

Tăng cường mua sắm vũ khí phòng thủ phi đối xứng: Tập trung vào các hệ thống tên lửa bờ đối hải hiện đại, hệ thống phòng không, và công nghệ giám sát trên biển (ISR – Intelligence, Surveillance, Reconnaissance) từ các quốc gia như Israel, Ấn Độ, Hàn Quốc, hoặc thậm chí là các đối tác phương Tây. Đặc biệt, là với Ukraine, hầu như nổi lên như là một “cường quốc” với kỹ năng chiến đấu phi đối xứng rất hiệu quả trong cuộc chiến Nga – Ukraine vốn rất phù hợp với thực trạng quân sự Việt Nam

Hợp tác chuyển giao công nghệ: Thay vì chỉ mua sắm, cần thúc đẩy hợp tác chuyển giao công nghệ để tăng cường năng lực tự chủ sản xuất quốc phòng, đặc biệt là trong lĩnh vực tác chiến điện tử (Electronic Warfare) và máy bay không người lái (UAVs).

Cộng 2 – Thiết lập đối tác chiến lược về an ninh hàng hải

Trong trường hợp phải duy trì nguyên tắc “Không liên minh quân sự” nhưng cần phải nâng cấp các thỏa thuận đối tác để tạo ra một mạng lưới phòng thủ chung không chính thức trên biển.

Thỏa thuận Hợp tác Hàng hải (Maritime Cooperation Agreements): Đẩy mạnh thỏa thuận đối tác an ninh và tuần tra chung với các quốc gia có lợi ích trực tiếp tại Biển Đông như Nhật Bản Bản, Ấn Độ, và Úc. Điều này không phải là liên minh quân sự, mà là sự tăng cường khả năng hoạt động chung, hỗ trợ tiếp vận và ứng phó thảm họa trên biển, qua đó tạo ra sự hiện diện quốc tế đa dạng và giảm thiểu áp lực đơn phương từ một cường quốc.

Ngoại giao Thượng đỉnh An ninh: Chủ động tham gia vào các cơ chế đối thoại an ninh cấp cao khu vực (như ADMM+, ARF) và sử dụng uy tín ngoại giao để thúc đẩy vai trò của luật pháp quốc tế (UNCLOS) nhằm kiềm chế các hành vi hung hăng trên biển.

Cộng 3 – Củng cố sức mạnh nội tại và “Thế trận lòng dân”

An ninh quốc gia trong thời đại mới không chỉ là quân sự, mà còn là khả năng chống chịu của xã hội và nền kinh tế trước cách thách thức an ninh đến từ bên ngoài lãnh thổ.

Đa dạng hóa Chuỗi Cung ứng: Giảm sự phụ thuộc kinh tế vào một thị trường duy nhất, đặc biệt là Trung Cộng, bằng cách thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do (FTA) và thu hút đầu tư từ nhiều nguồn là các đối tác trong khu vực Thái Bình Dương.

An ninh Mạng và Thông tin: Đầu tư mạnh vào việc bảo vệ cơ sở hạ tầng trọng yếu (Critical Infrastructure) khỏi các cuộc tấn công mạng, đặc biệt trong bối cảnh xung đột lớn có thể xảy ra.

Cộng 4 – Linh hoạt trong định nghĩa “Không cho đặt căn cứ”

Việt Nam có thể xem xét sự linh hoạt trong việc diễn giải nguyên tắc “Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự”.

Tạo điều kiện cho Hỗ trợ Tiếp vận và Kỹ thuật Hàng hải (Naval Logistics & Technical Support): Cho phép tàu hải quân nước ngoài (đặc biệt là các đối tác chiến lược) như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Úc, các quốc gia Châu Âu ghé cảng để sửa chữa kỹ thuật, tiếp tế nhân đạo, hoặc huấn luyện cứu hộ. Điều này không cấu thành “căn cứ quân sự” nhưng vẫn tạo ra sự hiện diện chiến lược của các cường quốc thân thiện, phục vụ mục đích răn đe và bảo đảm an ninh hàng hải.

Chủ động và cảnh giác

Trong nhiều thập niên qua, chế độ Hà Nội đã lựa chọn chính sách “Bốn Không” như là một công cụ ngoại giao quốc phòng. Thế nhưng, trước sự xâm phạm lãnh hải, hải đảo một cách thường xuyên, hung hăng và đầy quyết đoán của Trung Cộng tại vùng Biển Đông, cho thấy chính sách ấy đã không hề phát huy tác động tích cực nào cả. Thậm chí, còn không có cả bạn bè quốc tế, hoặc đồng minh lên tiếng bênh vực. Kể cả khối Asian hoặc đồng minh thân cận như CHLB Nga. Ngoại trừ sự lên tiếng của Hoa Kỳ, quốc gia vốn đã từng bị chế độ CSVN gọi xách mé là “Sen đầm quốc tế”.

Một dàn hỏa tiễn phòng không CSVN sao chép từ một sản phẩm cổ lỗ của Nga, đưa ra triển lãm khoe với thế giới cuối năm 2024 ở Hà Nội. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Chưa kể rằng, khi Trung Cộng phủ nhận Phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực (PCA) ngày 12/7/2016 trong vụ kiện giữa Phi Luật Tân và Trung Cộng về Biển Đông, theo đó, đã bác bỏ “đường 9 đoạn” của Trung Cộng. Khi ấy, CHLB Nga, quốc gia được chế độ CSVN xem như một đồng minh thân cận đã lên tiếng ủng hộ Trung Cộng.

Thế nên, trong bối cảnh môi trường an ninh đang thay đổi mạnh mẽ và rủi ro từ các cuộc xung đột tiềm tàng tại eo biển Đài Loan, Biển Hoa Đông và Biển Đông ngày càng hiện hữu, Việt Nam không thể thụ động dựa mãi vào chính sách “Bốn Không” đơn độc, yếu đuối đầy thất bại ấy được nữa.

An ninh của Việt Nam cần được đảm bảo thông qua một sự kết hợp khéo léo giữa Ngoại giao Cân bằng và Năng lực Răn đe đáng tin cậy. Điều này đòi hỏi phải chuyển đổi từ mô hình “Trung lập Phòng thủ” sang mô hình “Độc lập Chủ động” (Proactive Independence) – tức là chủ động thay đổi nguyên tắc “Bốn Không” thành “Bốn Cộng”, để tạo ra các mối quan hệ đối tác sâu sắc hơn với các quốc gia có năng lực, nâng cao sức mạnh quân sự phi đối xứng, và tăng cường khả năng chống chịu của đất nước. Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể trụ vững trong vòng xoáy địa chính trị phức tạp, bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia.

Bình luận về bài viết này