Trân Văn
Theo Nguoi-viet
Bộ Công An vừa giới thiệu ý tưởng dùng ứng dụng VNeID để phân công dân thành ba hạng. Hạng một là “tích cực,” hạng hai là “cơ bản” và hạng ba là “chưa xếp hạng.” Cứ như dự thảo nghị quyết về phát triển công dân số thì Bộ Công An sẽ dựa theo một “bộ chỉ số” được soạn sẵn với các tiêu chí cụ thể để “cho điểm” tất cả công dân Việt Nam và chỉ công dân hạng một mới được hưởng những ưu đãi về các loại thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân), lệ phí (trước bạ chuyển nhượng bất động sản, trước bạ khi đăng ký xe).
Về bản chất, “phát triển công dân số” là cách gọi việc “xếp hạng công dân” theo kiểu Trung Quốc. Sau 14 năm chuẩn bị cho việc xếp hạng công dân, năm 2014, Quốc Hội Trung Quốc công bố “Quy Hoạch Xây Dựng Hệ Thống Tín Nhiệm Xã Hội từ 2014 đến 2020” và SCS (Social Credit System) ra đời. SCS là kho dữ liệu tổng hợp thông tin về từng cá nhân trong lĩnh vực tư pháp, lĩnh vực hành chính, thuế,… để tạo ra “danh sách đỏ” và “danh sách đen.” Đỏ được xem là đáng tin, đen thì ngược lại và đã đen thì ngay cả đi lại bằng máy bay, tàu cao tốc cũng bị hạn chế.
Điều đáng nói là việc “xếp hạng công dân” ở Trung Quốc dựa trên rất nhiều bộ tiêu chí, có bộ tiêu chí do chính quyền trung ương ban hành, có bộ tiêu chí do chính quyền địa phương ban hành và vì quá nhiều tiêu chí để “cho điểm” cũng như “trừ điểm” nên “xếp hạng công dân” trở thành một loại ác mộng, thiếu thuế, phá sản, nợ nần của cả doanh nhân lẫn cá nhân, thậm chí đi muộn, xả rác, cãi nhau với hàng xóm,… đều có thể biến đương sự thành thứ “không đáng tin,” danh tính cũng như nhân diện có thể bị bêu trên nhiều loại nền tảng thông tin.
Rất nhiều công dân Trung Quốc do nghèo túng, thuộc nhóm yếu thế bị đưa vào “danh sách đen” và đã “đen” thì không chỉ bị hạn chế trong chuyện đi lại mà còn bị tước bỏ cơ hội học hành, việc làm. Không chỉ đương sự phải gánh chịu hậu quả của việc bị xác định là “không đáng tin” mà thân nhân như vợ, chồng, con cái cũng bị ảnh hưởng. Đó cũng là lý do SCS bị chỉ trích kịch liệt do đương sự và gia đình bị trừng phạt một cách thái quá so với mức độ “vi phạm,” hoàn toàn không tương xứng và thiếu công bằng.
Trong khi hệ thống công quyền và những cá nhân ủng hộ SCS lập luận rằng, việc “xếp hạng công dân” là phương thức tốt nhất để hệ thống công quyền tiết giảm chi phí kiểm tra, giám sát thông qua gia tăng hậu quả đối với các hành vi bội tín, vô tín, giúp giảm cả gian lận lẫn vô trách nhiệm mà vỡ nợ, nâng cao tỷ lệ thực thi phán quyết của hệ thống tòa án, khiến tất cả mọi người hiểu rằng “nếu không đáng tin thì phải trả giá” thì giới trí thức và phần lớn thị dân ở các thành phố lớn của Trung Quốc phê phán SCS gay gắt.
Thiên hạ trưng ra hàng loạt trường hợp cụ thể để chứng minh, các tiêu chí không đồng nhất nên tạo ra bất bình đẳng, có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy, việc lập “danh sách đen” tùy tiện, thiếu minh bạch, xếp ai đó vào loại “không đáng tin” là một kiểu hành chính hóa hình phạt bên ngoài hệ thống tài phán tư pháp. Đó là chưa kể SCS còn tạo ra một phương thức trừng phạt mới nhưng vi hiến, buộc những người “không đáng tin” phải trả giá đắt dù họ chỉ có “hành vi không phù hợp” chứ “không vi phạm pháp luật,” tạo ra sự nhập nhằng giữa quản lý xã hội và kiểm soát đời tư.
Đó cũng là lý do cộng đồng quốc tế bày tỏ sự lo ngại rằng việc tạo ra và thực thi SCS tại Trung Quốc xung đột với các tiêu chuẩn phổ quát về nhân quyền như sự riêng tư, tự do đi lại, được xét xử công bằng. Ngoài ra còn có khả năng khi triển khai giám sát đại trà, SCS bị lạm dụng để gây áp lực với những người bày tỏ sự bất đồng về chủ trương, chính sách của hệ thống công quyền. SCS tại Trung Quốc có thể sẽ tạo ra tiền lệ và các chính phủ chuyên quyền sẽ sao chép, dùng danh nghĩa “quản trị số” để làm xói mòn các chuẩn mực nhân quyền quốc tế.
Không phải tự nhiên mà từ 2020 đến nay, chính quyền Trung Quốc thu hẹp phạm vi thực hiện SCS, giảm các biện pháp trừng phạt cực đoan và đổi giọng, không đề cao SCS như một công cụ “đánh giá đạo đức” nữa mà giải thích SCS là “quản lý theo pháp luật,” đồng thời sửa đổi, ban hành thêm các quy định pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, an ninh dữ liệu, xác lập giới hạn trong thu thập và sử dụng thông tin, chủ động kềm hãm tốc độ triển khai SCS, đề cao kiểm soát và hợp thức hóa việc thực thi SCS.
***
Một số chuyên gia cả trong lẫn ngoài Trung Quốc đã từng khuyến cáo, về ngắn hạn, SCS theo kiểu Trung Quốc có thể khiến cá nhân tuân thủ các quy định pháp luật nghiêm túc hơn, buộc phải đắn đo nếu muốn trốn tránh nghĩa vụ nhưng đó cũng là nguyên nhân khiến mọi người thụ động hơn cả trong sinh hoạt lẫn công việc. Về dài hạn, mức độ trật tự có thể tăng nhưng vốn xã hội sẽ suy giảm. Cá nhân sẽ tự thiết lập và thực thi cơ chế phòng thủ trong các mối quan hệ. Bất bình đẳng trở nên bền vững và khó đảo ngược.
Ở khía cạnh kinh tế, ban đầu, có thể rủi ro trong các giao dịch sẽ giảm, doanh nhân cẩn trọng hơn khi thực hiện các kế hoạch kinh doanh, đổ vỡ bị hạn chế nhưng trong tương lai gần, doanh giới sẽ ngại mạo hiểm, ngại thử nghiệm vì thất bại sẽ đẩy họ đến chỗ bị xếp loại “không đáng tin.” Nỗ lực sáng tạo, đổi mới sẽ bị SCS làm cho thui chột vì với SCS, “ngoan” an toàn hơn “giỏi.” Bởi SCS đề cao “đáng tin” hơn hiệu quả kinh tế thực, doanh nhân buộc phải cẩn trọng. Khi việc phân bổ các nguồn lực bị SCS làm cho méo mó, tất nhiên hiệu suất dài hạn của nền kinh tế sẽ suy giảm.
Cứ như nội dung dự thảo nghị quyết về phát triển công dân số, muốn đạt hạng một, công dân phải… góp ý cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, tương tác với đại biểu quốc hội, tham gia các cuộc khảo sát do nhà nước thực hiện, phản ánh/kiến nghị với cơ quan nhà nước,… để được cộng thêm điểm, có thêm cơ hội được xếp vào loại “tích cực!” Người Việt có sẵn sàng đánh đổi nhiều thứ, trong đó bao gồm tự do, thậm chí cả phẩm giá để sự nghiệp “phát triển công dân số” của Bộ Công An Việt Nam thành công rực rỡ? [dt]
