Thanh Phương
Theo RFI
Vào những ngày cuối năm, sắp đến Giáng Sinh và Tết Dương lịch, ở châu Âu người ta thường tặng cho nhau những hộp sôcôla, ít tiền thì mua những hộp sôcôla trong các siêu thi, sang hơn thì mua trong các cửa hàng sôcôla cao cấp. Năm 2025, thị trường sôcôla toàn cầu ước tính đạt khoảng 127 tỷ đôla, tăng nhẹ so với mức 123 tỷ đôla năm 2024, với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 4,8%/năm.

Riêng ở Pháp, theo số liệu của nghiệp đoàn ngành sản xuất sôcôla, trong năm 2024, mức tiêu thụ trung bình là 12,3 kg/năm/hộ gia đình. Người Pháp có xu hướng tiêu thụ nhiều sôcôla đen hơn phần còn lại của châu Âu (30% so với mức trung bình 5% ở châu Âu).
Cacao là nguyên liệu chính cho sôcôla. So với các khu vực sản xuất cacao lớn trên thế giới như châu Phi chiếm tới 71%, Trung Mỹ 11% và châu Á 18%, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có sản lượng nhỏ, chỉ khoảng vài nghìn tấn/năm.
Ở Việt Nam, cacao được trồng chủ yếu tại các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Duyên hải Nam Trung bộ. Tuy sản lượng nhỏ, cacao của Việt Nam có hương vị đặc biệt, được xem là rất phù hợp với các nhà làm sôcôla thủ công, nhưng cũng có nhiều tiềm năng về chế biến sôcôla cao cấp. Hạt cacao trồng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là có chất lượng hạng nhất thế giới.
Mặc dù vậy, ngành chế biến sôcôla ở Việt Nam nói chung vẫn còn ở quy mô nhỏ. Các cơ sở làm sôcôla thủ công đa số là xưởng nhỏ, chủ yếu hướng đến khách du lịch, chứ chưa đủ năng lực cạnh tranh ở quy mô xuất khẩu lớn.
Như vậy, sôcôla sản xuất từ cacao Việt Nam phải làm cách nào để thâm nhập được thị trường châu Âu nói chung và Pháp nói riêng ? Hôm nay, mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với ông Francesco Trần Văn Liêng, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cacao Việt Nam ( Vinacacao ):
Thưa ông Francesco Trần Văn Liêng, trước hết xin ông cho biết là cacao Việt Nam có những đặc tính nào khác với cacao từ những khu vực khác trên thế giới?
Cây ca cao thì trồng hơi khó, nó không thích khí hậu cao nguyên mà thích đồng bằng hơn. Cho đến bây giờ châu Âu vẫn phụ thuộc vào các nguồn cung từ Côte d’Ivoire và Ghana. Việt Nam nổi bật lên thành một quốc gia cung cấp hạt sôcôla mà chúng tôi gọi là premium, vì hạt cacao Việt Nam có 136 hương vị phản ánh thổ nhưỡng của quốc gia.
Ví dụ Đồng bằng sông Cửu Long là nơi đất tốt, mưa nhiều, dồi dào phù sa, tạo ra hương vị mang tính chất fruity. Fruity tức là vị chua nhẹ, ngọt thanh, chứ không phải là giống như nutty. Nutty là của Côte d’Ivoire và Ghana, những vùng cao nguyên đất đỏ, hương vị của nó hạt khô.
Cho nên Việt Nam tận dụng ưu thế này mà sản xuất ra những loại hạt sôcôla ngon và người châu Âu, đặc biệt là hãng Puratos, hay là Vinacacao của chúng tôi làm ra những thanh sôcôla có vị tương đối đặc biệt. Vì đất tốt mưa nhiều cho nên cơm xung quanh hạt cacao rất dày và khi chúng tôi ủ hạt thì độ ngọt thơm và chua nhẹ đi sâu vào trong hạt và lúc đó từ đó mình làm ra sôcôla.
Những nhà nghiên cứu như của đại học Ghent của Bỉ tìm ra được 136 hương vị của hạt cacao Việt Nam. Đó là niềm hãnh diện rất là lớn khi mà hiện nay số 1, số 2 thế giới là Côte D’Ivoire và Ghana. Việt Nam về lượng thì không bằng, nhưng về giá thì lúc nào cũng cao hơn. Ví dụ như hiện nay với 6.000 đôla bạn có thể mua 1 tấn hạt cacao của Côte D’Ivoire và Ghana, chứ cacao Việt Nam thì phải trả tới 12.000 đôla.
Giống như câu chuyện về cà phê. Ví dụ Brazil sản xuất rất nhiều hạt cà phê. Nhưng khi bạn uống cà phê thì bạn đi tìm những origin, những nguồn gốc như Colombia, Ethiopia hoặc Guatemala. Những quốc gia này làm ra những loại hạt mà nhiều hãng lớn như Starbucks bán với tư cách giống như single origin. Hạt cacao cũng vậy. Hạt cacao Việt Nam được xem như là single origin, tức là hạt cacao thuần Việt.
Theo quan sát của ông thì hiện nay các cơ sở sản xuất sô cô la từ ca cao Việt Nam có quy mô như thế nào và họ đã sản xuất được bao nhiêu cũng như là đã xuất khẩu được sang những nước nào?
Phần lớn các hãng sản xuất sôcôla hiện nay là ‘small holders’, tức là những người tương đối nhỏ và làm sôcôla mang hương vị hình hài của đất nước nhiều hơn, pha với những trái cây vùng nhiệt đới, đặc biệt là dừa. Đó là một thế mạnh và nói về quy mô thì đây là ngành không chạy theo số lượng, bởi vì nếu chạy theo số lượng thì rõ ràng mình đấu không lại những quốc gia như Côte d’Ivoire, Ghana hoặc Indonesia
Trong số những cơ sở hiện nay, chỉ có Vinacacao là 20 năm trong ngành, chúng tôi có quy mô khá là lớn và dẫn đầu được trong ngành, đặc biệt là ngành bán lẻ. Chúng tôi làm ra thành phẩm cuối cùng mà các bạn có thể thấy trong siêu thị lớn ở Việt Nam, ở các sân bay lớn.
Chúng tôi sang Bỉ làm ăn theo kiểu hiệp thương về mutual, tức là họ bán hàng cho mình thì họ cũng phải mua gì của mình, hai bên cùng có lợi. Bằng cách đó chúng tôi thâm nhập vào thị trường của nhau, tức là mình mua những sản phẩm độc lạ, hay của Bỉ và Bỉ cũng sẽ mua lại những sản phẩm độc lạ, hay của Vinacacao. Đây là một phương thức mà chúng tôi sử dụng để có thể thâm nhập vào những thị trường khó tính.
Các nhãn lớn mà các bạn thấy thì đều có mặt ở Việt Nam, nhưng ngành sôcôla trong nước thì có lợi thế là khống chế được chi phí sản xuất. Ví dụ Vinacao là trồng được cây ca cao, phát triển được vườn cây, chủ động được nguồn hạt, nó có khả năng chế biến sang sô cô la, có thể là phát triển thành phẩm, có thể xây dựng thương hiệu, thì nó sẽ tránh được những biến động cơ bản về giá cả. Đó cũng là một lợi thế mà Vinacacao và các doanh nghiệp nhỏ lẻ có thể khai thác.
Nhưng để xâm nhập được thị trường châu Âu, sôcôla “made in Vietnam” phải đáp ứng những tiêu chuẩn gì?
Để vào thị trường châu Âu, chúng tôi có những chiến lược khá là cụ thể. Thứ nhất, mình sẽ không đi về lượng, đặc biệt là mình không bán hàng trăm ngàn tấn, hoặc cả triệu tấn như Ghana và Côte d’Ivoire, mà chúng tôi chọn những hạt cacao premium và từ đó làm ra những loại sôcôla single origin.
Hiện nay Châu Âu có đặt ra những rào cản mới. Ngoài các tiêu chuẩn về an toàn vi sinh thực phẩm, hoặc chất lượng như ISO hoặc là FSSC, hiện nay cộng đồng chung Châu Âu, vì ý thức bảo vệ môi trường, đã đưa ra luật mới, áp dụng vào tháng 12/2025 này: Những hạt ca cao nào mà sản xuất từ vùng đất không phá rừng thì mới đạt tiêu chuẩn nhập vào châu Âu.
Đây là một luật khó, nhưng nó lại tạo thuận lợi cho những quốc gia như Việt Nam, đi sau thì sẽ có chuẩn bị tốt hơn, còn những quốc gia đã có truyền thống gần 100 năm nay xuất khẩu hạt lấy từ nhiều nguồn khác nhau, từ rừng rậm hoặc phá rừng để trồng cây thì hiện nay giống như là phải “sắp lại một bàn cờ mới”.
Các vùng đất Đồng bằng Sông Cửu Long từ xưa giờ được kiểm chứng rất rõ là không phá rừng. Đó là vùng canh tác tự nhiên của người Việt Nam mình có thể là từ vài trăm năm. Đó là thuận lợi rất lớn. Và khi mình lấy những certification, ví dụ như từ Rainforest Alliance, những tổ chức phi lợi nhuận dùng các không ảnh vệ tinh để biết được những vùng nào trong 14 năm vừa qua nhờ phá rừng mà có. Hoặc là những vùng nào trong 14 năm qua vẫn không có tình trạng này. Khi có những chứng thư đó thì mình dễ được chấp nhận bởi các nước EU, những quốc gia tiêu thụ sôcôla nhiều nhất thế giới.
Chúng tôi được biết là vừa qua các ông có sang Pháp để thăm dò thị trường. Vậy thì qua chuyến đi đó, ông thấy là Vinacacao có thể thi hành những biện pháp nào để có thể thâm nhập thị trường Pháp dễ dàng hơn?
Vừa rồi đại sứ Việt Nam, rồi bộ Công Thương, kết hợp với các hiệp hội ở Pháp về thực phẩm và đặc biệt là có sự tham dự của Monoprix, một hệ thống siêu thị khá lớn ở Pháp, chúng tôi có một buổi hội thảo rất có ý nghĩa tại Paris. Trong buổi hội thảo đó, tôi cũng đặt vấn đề thương mại hai chiều, có nghĩa là những sản phẩm sôcôla nào ngon của Pháp thì chúng tôi sẵn sàng đưa về Việt Nam và đồng thời cũng đặt vấn đề là các ông hãy xem xét để có thể mua ngược lại.
Rất may một đại diện của một hãng lớn là Valrhona, sở hữu thương hiệu La Maison du Chocolat Paris, rất quan tâm tới việc hợp tác để đem dòng sôcôla rất là ngon và đặc biệt của Việt Nam, premium về quality, để họ sẽ phát triển một dòng sôcôla riêng. Đồng thời tôi cũng sẽ tìm kiếm phương thức để đem về những sản phẩm thành phẩm của Châu Âu, đặc biệt là của Pháp.
Người ăn sôcôla châu Âu là người tiêu dùng có ý thức trách nhiệm, có nghĩa là họ hiểu được ăn sôcôla này có ảnh hưởng gì tới kinh tế địa phương, có gây bất cân bằng về cung cầu và gây thiệt hại cho lao động địa phương, có giúp phát triển được kinh tế địa phương không? Có gây ra sự không công bằng trong thương lượng giữa công ty châu Âu và và kinh tế địa phương không?
Người Việt Nam phải đưa đặc điểm rõ ràng của sôcôla Việt Nam đến người tiêu dùng châu Âu, trong đó có Pháp, để họ hiểu đây là một đặc phẩm có trách nhiệm. Khi ăn họ cảm thấy đã đóng góp được cho kinh tế địa phương tại những vùng kém phát triển hơn.
Thứ hai là hiện nay, với ý thức của người châu Âu về tiêu dùng xanh, về trách nhiệm xã hội, về ESG- Environmental (Môi trường), Social (Xã hội) và Governance (Quản trị doanh nghiệp) – doanh nghiệp Việt Nam ngay từ bây giờ, khi thiết kế sản phẩm phải chú ý rõ ràng nguồn gốc và các giấy tờ chứng minh là không thâm lạm về phá hoại môi trường, không thâm lạm về lao động trẻ em, không thâm lạm về các chất hóa học và trừ sâu. Tôi nghĩ đây là con đường mới và một tương lai mới cho sôcôla Việt Nam.