Theo Tiengdan

Tôi tranh thủ thời gian ở Việt Nam để lần mò, tìm hiểu các sự việc, nguồn gốc sự thật. Tìm đến gốc rễ mọi vấn đề là cần thiết, đã làm gì thì phải đến cùng.
Bộ nhật ký Đặng Thùy Trâm là một trong những mẩu chuyện trong “Xuyên qua mọi chiến tuyến” [1]. Bản thân tập nhật ký không phải là chủ đề, mà là những con người đã làm nên điều kỳ diệu khi đưa nó về cho gia đình chị Thùy sau 35 năm mò kim đáy bể. Điều kỳ diệu không tự đến, chúng chỉ xảy ra nhờ những con người dù bình dị, nhưng tâm huyết và quyết làm đến cùng. Ted Engelmann là một người như vậy.
Hai anh em Frederic (Fred) und Robert (Rob) Whitehurst đã nhờ vả không biết bao nhiêu người trong các tổ chức nghiên cứu chiến tranh Việt Nam cũng như nhiều người Việt tên tuổi từng dự các hội thảo ở Mỹ. Ai cũng tỏ ra đồng cảm với quyết tâm của hai anh, nhưng không ai giúp được gì. Chỉ khi gặp Ted Engelmann, một cựu sỹ quan không lực Mỹ tại Việt Nam, họ mới nhận được một lời hứa.
Hứa là làm. Cầm CD của bộ nhật ký sang Việt Nam, Ted bắt tay ngay vào tìm kiếm, dù chưa đọc hết bản dịch tiếng Anh của Rob. Biết ông Đặng Ngọc Khuê, bố chị Thùy từng là bác sĩ bệnh viện Đông Anh, anh đã nhờ cơ quan y tế ở Hà Nội tìm. Chỉ những lời “thông cảm” suông.
Ted lại nhờ bà Borton, phụ trách văn phòng Quaker tại Việt Nam. Nói đến Lady Borton, nhiều người Việt biết đến người phụ nữ Mỹ đã gần 60 năm lăn lộn ở đất nước này. Trong chiến tranh, bà cùng các thành viên Quaker giúp đỡ các nạn nhân ở Quảng Ngãi, cùng thời gian chị Thùy làm việc ở bệnh xã Đức Phổ, bên kia chiến tuyến. Khi nghe Ted kể về việc tìm gia đình tác giả tập nhật ký, bà xúc động và quyết giúp đỡ. Nói là làm, bà nhờ các nhân viên Việt Nam đang giúp việc trong văn phòng tìm hộ gia đình bác sỹ Khuê.
Đỗ Xuân Ánh, một nhân viên văn phòng Quaker, mang CD về nhà là mở ra đọc ngay. Nhật ký khiến cô nhớ đến những người thân trong gia đình đã mất trong chiến tranh. Xuân Ánh đã quyết tâm tìm bằng được gia đình bác sĩ Khuê. Nhờ Ánh mà ngày 28.04.2005, Ted đã điện thoại báo cho mẹ con chị Thùy về sự tồn tại của tập nhật ký.
Tôi đã kết nối với Ted, với Lady Borton và cháu Xuân Ánh vì quý trọng tính cách của họ.
Ted hay sang Việt Nam chụp ảnh, viết bài cho các tạp chí cựu chiến binh Mỹ. Anh chỉ trọ ở những khách sạn nhỏ. Tôi rủ anh đi ăn đặc sản Việt, anh kéo tôi vào một quán ăn buffet loại xoàng đầu phố Nguyễn Siêu, mỗi người chỉ hết 60.000 VND gồm cả bia hơi. Ted không hiểu sâu về nền chính trị Việt Nam nên anh rất thích thú về những tâm sự của tôi. Anh sang đây chỉ vì sứ mệnh muốn giúp con người.
Lady Borton cũng vậy, bà không quan tâm đến việc hợp tác với chính thể VNCH trước kia hay với nhà nước XHCN ngày nay. Bà giúp đỡ những người nghèo vì họ luôn cần bà. Xuân Ánh cũng vậy. Cho đến hôm nay, cô vẫn lặn lội giúp đỡ nông dân Điện Biên cải thiện cuộc sống của họ.
Nhờ những con người bình dị này nên một phần lịch sử đã không bị lãng quên. Nguyễn Trung Hiếu, trung sĩ quân lực VNCH chỉ là một thanh niên vốn yêu văn học, nhưng số phận đẩy anh đi lính.
Trong đời binh nghiệp của mình, Hiếu đã đọc rất nhiều nhật ký và thư từ của lính Bắc. Chỉ riêng việc có đến 40% lính Bắc viết nhật ký và nhiều người viết rất hay đã khiến anh kính trọng và khâm phục.
Tập nhật ký của Đặng Thùy Trâm chỉ là một trong trong vô số những nhật ký anh đọc. Anh phải lòng ngay quyển nhật ký đầu. Đoán là chủ nhân của nó còn sống, anh quyết tìm nốt quyển hai. Sáu tháng sau, anh đã tìm thấy quyển hai (ghi chú quân báo là chị đã chết). Sự hiện hữu của hai quyển nhật ký bên nhau đã giúp Rob Whitehurst tạo ra lý lịch của chủ nhân. Đó không chỉ là tình cờ, mà là quyết tâm của trung sĩ Hiếu.
May mắn là bộ nhật ký được Hiếu đưa cho Fred, một người có tâm hồn cao thượng. Anh Fred là Rob vừa giỏi tiếng Việt vừa rất gắn bó với quê vợ. Rồi họ gặp một người tử tế như Ted Engelmann, Ted lại may mắn gặp Lady Borton và Xuân Ánh, những người tâm huyết. Tất cả chuỗi xích may mắn đó đã tạo nên điều kỳ diệu. Biết bao nhiêu những nhật ký tuyệt vời khác đã bị chôn vùi chỉ vì thiếu một trong những mắt xích đó.
***
Một con người bình dị khác, nhưng đã làm thì phải đến cùng cũng xuất hiện trong câu chuyện thần kỳ của chị Đep (Chương 4). Chị ở vậy cho đến nay, chỉ để tìm đứa con lai mà chị gửi sang Mỹ ngày 26.04.1975. Câu chuyện đó được đăng tải trên mạng đã làm xúc động hàng trăm ngàn trái tim Việt, Mỹ. Nhưng chỉ có một chàng sinh viên ở Mỹ là quyết tâm giúp chị tìm con. Sau rất nhiều đêm ròng lần mò trên mạng, sau biết bao email và điện thoại, chàng sinh viên Lê Vũ đang du học tại Mỹ đã tìm ra tung tích con gái chị Đẹp. Tôi quý Lê Vũ, vì cậu không dễ bỏ qua một điều mà cậu cảm thấy có ích cho đời.
Anh Đỗ Thái Bình cũng là một người luôn đi đến tận cùng của sự thật. Ông nội anh, cụ Đỗ Văn Phong là một chí sĩ trong phong trào “Đông Kinh Nghĩa Thục”, từng bị Pháp đầy đi biệt xứ sang tận Guyane năm 1913. Năm 1917, cụ Phong cùng vài tù nhân khác vượt ngục. Những ai đã đọc “Papillon” của Henri Charrière sẽ hiểu rằng Guyane, với cái tên “”Địa ngục xanh”, là một ngục thất “không thể thoát”.
Theo anh Bình, đã có khoảng 9.000 cuộc vượt ngục trong suốt hơn 150 năm lịch sử nhà lao. Số người vượt ngục sống sót có thể đếm trên đầu ngón tay. Trong số những người may mắn đó, ba người Việt là Đỗ Văn Phong, Nguyễn Quang Diêu và Lý Liễu, đã vượt ngục thành công để trở về nước tiếp tục chống Pháp.
Ngày nay chúng ta biết được câu chuyện trên, biết được thêm về các tổ chức chống Pháp bị đàn áp khốc liệt như “Đông kinh nghĩa thục”, “Quang phục hội”, “Việt Nam Quốc dân đảng”, chính là nhờ vào những nghiên cứu công phu như của anh Đỗ Thái Bình. Anh đã bỏ ra cả chục năm trời lần theo dấu vết của ông nội. Anh sang Pháp, đến tận kho lưu trữ ANOM ở Aix-en-Provence để tìm, để copy hàng trăm trang tư liệu. Anh sang tận Guyane, lần mò đến tất cả những nơi mà người tù Việt Nam từng đặt chân đến. Anh tìm gặp những hậu duệ tù nhân Việt và đặc biệt là mò ngập trong kho lưu trữ Guyane để tìm ra danh sách 1311 người tù gốc Việt. Anh tìm đọc tài liệu của các học giả Pháp Delesale Olivier [2] và Christèle Dedebant [3]. Thì ra người Pháp nghiên cứu rất sâu về lịch sử tù nhân Việt ở Guyane.
Tháng 5.2025 cuốn sách “Ba người vượt ngục Guyane” của anh, dày 505 trang, với vô số dữ liệu và hình ảnh đã được xuất bản.
Ngay sau khi vào đến Sài Gòn, tôi đến thăm ông anh U90 tại Phú Mỹ Hưng. Bái phục sức lao động và ý chí của ông kỹ sư về hưu. Quyển sách nặng chình chịch của anh là một kho sử liệu, sẽ giúp tôi tìm hiểu thêm những góc khuất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
***
Không phải người nào cũng đi đến cùng như anh Đỗ Thái Bình, cháu Lê Vũ, cháu Xuân Ánh hay trung sĩ Hiếu. Tôi đã lùng khắp Sài Gòn để tìm tung tích của phái đoàn quân sự Ba Lan từ 1954 đến1975 ở đây. Tôi coi người Ba Lan là thánh của mình, khi được hưởng những ân tình của các thủy thủ Ba Lan trên chiếc tàu Kilinski chở người tập kết ra Bắc đầu năm 1955 [4]. Vì vậy tôi rất thích thú khi nghe bạn tôi, Stephan Köster, kể là anh ta đã gặp ông đại sứ nước Ba Lan cộng sản hôm 30.4.1975 trong một khách sạn, bên cạnh những người phương Tây cuối cùng còn ở lại đó (Chương 3 “Ông Việt Cộng gốc Đức”).
Khách sạn nào: Rex hay Oscar? Ông bạn già 80 tuổi không còn nhớ rõ sau 50 năm, vì cả hai cùng nằm trên đường Nguyễn Huệ. Tôi đã đến cả hai khách sạn 5 sao này để tìm dấu tích phái đoàn Ba Lan. Chỉ gặp những cái lắc đầu. Ở khách sạn Rex, tôi nhờ một anh đã có tuổi, chắc là phụ trách nhóm tiếp tân hôm đó thử tìm những nhân viên cũ sau 1975 vẫn ở lại làm việc, xem may ra có ai còn nhớ đến người Ba-Lan không? Anh ta lắc đầu. Một phụ nữ đứng gần nghe vậy thì nhắc đến tên một bác nhân viên già, hồi nào có đến gặp mặt hưu trí. Anh quay lại nhìn, khiến chị bỏ đi.
Chỉ một sự ngại khó nhỏ có thể làm mất đi cơ hội tìm ra một chút sự thật. Địa chỉ của phái đoàn Ba Lan chỉ là một chi tiết nhỏ xíu trong cả câu chuyện về vai trò của người Ba Lan trong chiến tranh Việt Nam mà tôi sẽ viết trong cuốn sách khác, như là một trong những góc khuất mà rất nhiều người chưa biết đến trong hai cuộc chiến tranh vừa qua.
Nhỏ xíu, nhưng nếu không chính xác thì tính chân thực của câu chuyện sẽ thiệt thòi. Nhưng ai còn nghĩ rằng chuyện lịch sử phải chính xác đến thế?
(Còn tiếp)
_____
[1] Tho-nx.github.io
[2] Delesale Olivier “Le Bagnards Indochinoise de la Guyane”
[3] Christele Dedebant “Le Bagnards Annamité“
[4] Chuyến tàu tập kết ra Bắc (FB Nguyễn Thọ)
_____
Bài liên quan: