Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai
Theo BBC

Trong những kỳ trước, loạt bài viết về cuộc chiến ở Ukraine đã khái quát những thách thức mà đất nước này đang phải đối mặt: Hiện thực hủy diệt của bom đạn (bài 1), những đứt gãy tâm lý (bài 2), khả năng phục hồi (bài 3), bài toán nhân lực (bài 4), và thực lực trên chiến trường (bài 5).
Bài viết kỳ này ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về nguồn gốc của tinh thần phản kháng đã giúp người Ukraine trụ lại suốt gần 4 năm qua.
Về nhà
Khi chiến tranh bùng nổ, biên giới châu Âu mở cửa, bác sĩ Alina cùng con gái chạy sang Hà Lan. Họ được bố trí một căn hộ ngay gần trung tâm Amsterdam. Alina được nhận vào một bệnh viện lớn. Hai mẹ con nhờ chạy loạn mà có “cuộc sống trong mơ”, bởi trước chiến tranh, tìm được cách sang Tây Âu là một cuộc đổi đời.
“Nhưng không hiểu sao cả cơ thể tôi đau đớn. Dạ dày quặn thắt, đầu như vỡ ra, đêm nào cũng mất ngủ.”
Alina quyết định quay về Kharkiv – thành phố chỉ cách biên giới Nga vài chục cây số. Đêm đầu tiên trong nhà mình, quân Nga ở cách đó chỉ vài cây số, khu phố xung quanh đầy vết đạn, nhưng Alina ngủ một giấc ngon chưa từng thấy.
“Tại sao ư? Tại tôi yêu mảnh đất này. Nơi đây có vườn nho của cha tôi. Trên đời không đâu đẹp bằng Kharkiv.”
Một gia đình người Việt cũng vậy. Hai anh chị làm hàng ăn rất phát đạt ở Kharkiv. Chiến tranh nổ ra, cả gia đình trốn thoát sang Tiệp (Cộng hòa Séc). Mọi thứ rất ổn, có công việc, có nhà cửa. Tiếng Ukraine và tiếng Tiệp khá giống nhau nên chỉ sau vài tháng anh đã được giao quản lý cửa hàng. Nhưng thằng con trai anh thì cứ buồn bã không nguôi, đi học về là nó chui vào phòng đóng kín cửa.
Mẹ anh ở Việt Nam thấy thế bảo: “Chỗ nào thoải mái thì ở. Người ta sống được thì mình cũng sống được. Bom đạn tránh người, chứ người chả tránh được bom đạn.”
Thế là năm 2023 cả gia đình kéo nhau về Ukraine, làm lại từ đầu. Thằng con anh đặt chân tới nhà là vui vẻ hẳn lên, đi học đi chơi từ sáng đến tối.
“Kharkiv có thể bị mất không anh?”
Nghĩ một lúc rồi anh mới trả lời: “Không mất. Không thể mất. Kharkiv là biểu tượng của kháng chiến, là ‘thành phố thép’ của Ukraine. Nếu Nga không chiếm được ngay từ đầu thì sẽ chẳng bao giờ chiếm được.”
Tôi đã ngỡ Kharkiv hẳn là một vùng đất đặc biệt nên những người con nơi đây mới yêu nó tha thiết đến thế. Nhưng hóa ra không phải.
Ở Odesa cũng vậy. Thành phố ngày nào cũng bị bắn phá từ Biển Đen. Tôi gặp một gia đình trẻ dù đã yên vị ở Hungary, nhưng khi biết tin vợ có bầu, cả hai liền quay về Odesa, nơi họ có căn nhà hướng mặt ra biển.
“Em không sợ khi nhìn ra biển đêm ư?” – “Có chứ chị. Nhưng Hungary không có biển. Mùi của biển quan trọng với em hơn.”

Những lãnh đạo miền Đông ‘quay xe’
Vào ngày thứ sáu của cuộc chiến, tòa nhà hành chính đồng thời là công trình kiến trúc biểu tượng của Kharkiv bị tên lửa phá hủy. Nhiều người vốn thân thiện với Nga ở Kharkiv bàng hoàng đến mức họ quyết định quay xe và coi Nga là kẻ thù. Chỉ cách Nga có vài chục cây số và bị dội bom với cường độ cao nhất cả nước, bài hát “Putin Khuilo” (Putin là thằng đầu b…) vang lên thường xuyên và được viết vẽ đầy trên các bức tường thành phố.
Thị trưởng Kharkiv vốn là một chính trị gia hữu hảo với Nga. Sau cuộc tấn công, ông tuyên bố: Đây là “tội ác chiến tranh” và người dân Kharkiv sẽ “không bao giờ tha thứ”.
Tương tự, thị trưởng Odesa từ lâu đã bị đồn là có hộ chiếu Nga và mới đây còn bị tước hộ chiếu Ukraine. Đối diện với cáo buộc, ông vẫn tiếp tục lên án: “Odesa là thành phố ‘nói tiếng Nga’ chứ không ‘thân Nga’. Putin, ông là đồ phát xít, là con quái vật. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ thành phố của mình.”
Thống đốc tỉnh Mykolayiv – một người vốn ôn hòa với Nga – nhưng giờ đây thường xuyên gọi Putin bằng từ miệt thị nặng nề “khuilo”, gọi lính Nga là “orc” (oрки) – một chủng tộc tàn bạo và ngu ngốc trong tác phẩm “Chúa tể những chiếc nhẫn”.
Nhiều quan chức địa phương giáp biên giới như thị trưởng Melitopol và Dniprorudne đã kiên quyết từ chối hợp tác với quân Nga nên bị bắt cóc và giam cầm. Họ lập tức trở thành biểu tượng của “tinh thần kháng chiến chống ngoại xâm”.
Tuy nhiên, việc nhiều lãnh đạo miền Đông đồng loạt coi Nga là kẻ thù không đơn giản là một biểu hiện của “lòng yêu nước” hay sự “trung thành” với chính quyền trung ương Kyiv. Để hiểu được nguồn gốc sâu xa của tinh thần kháng Nga, chúng ta phải quay về cội nguồn lịch sử của Ukraine.

Quyền lực phi tập trung
Cách đây khoảng một nghìn năm, vào thế kỷ thứ 9-13, Kyiv là trung tâm chính trị của một vùng lãnh thổ tên là Rus (rusĭskaja zemlja – đất của Rus/Rusland), bao gồm Ukraine, Belarus và phần phía Tây của Nga hiện nay).
Tầng lớp thống trị Rus là hoàng tộc Rurik, vốn dòng dõi Viking Bắc Âu (Varangian Rus) vượt biển sang vùng này. Chữ “Rus” có nghĩa là “người Thụy Điển/người chèo thuyền”. Tuy kẻ cai trị là người Viking Rus, các bộ tộc Slavic bản địa đã sống ở đây từ rất xa xưa.

Người Viking Rus là những thương nhân và chiến binh tài giỏi. Vì vậy, khi thống trị vùng đất này, họ không chú trọng vào bộ máy quản lý tập trung. Sau khi đại vương công đầu tiên nhà Rurik chết đi, vị trí tối cao vẫn thuộc về Kyiv, nhưng quyền lực được phân tán giữa các thân vương ra nhiều thành bang tự trị xung quanh.
Chính vì sự phân quyền này mà các nhánh gia tộc Rus thường cạnh tranh lẫn nhau khiến quyền lực của đại vương công Kyiv ngày càng suy yếu, góp phần vào sự sụp đổ hoàn toàn khi quân Mông Cổ tràn tới vào thế kỷ 13.
Rus tan rã thành hai phần chính. Vùng đông bắc (Moscow và một phần lãnh thổ Ukraine, Nga, Belarus hiện nay) chịu sự kiểm soát của Mông Cổ và thể chế quân sự cai trị tập trung.
Ngược lại, vùng tây nam (Kyiv và phần lớn Ukraine ngày nay) dần sáp nhập vào liên bang Ba Lan-Litva.
Tương tự như Rus, liên bang Ba Lan-Litva cũng là một hệ thống chính trị phi tập trung. Nhà vua ở vị trí tối cao nhưng giới quý tộc và đại điền chủ nắm trong tay nhiều quyền lực. Họ đòi dân chủ cho tầng lớp lãnh chúa (szlachta democracy) và quyền tự trị trong chính sách nông nô tại lãnh thổ của mình.

Danh tính địa phương
Kế thừa một lịch sử chính trị phân quyền như vậy, danh tính địa phương của Ukraine vô cùng mạnh mẽ. Các tỉnh thành của Ukraine rất độc lập với chính quyền trung ương. Về mặt tinh thần, lãnh đạo và người dân gắn bó với quê hương mình chứ không hẳn là trung thành với quyền lực tối cao ở Kyiv. Bác sĩ Alina và những người tôi gặp không chỉ trở về Ukraine. Họ phải trở về Kharkiv, Odesa, Dnipro – những vùng đất họ coi như một phần thân thể.
Chính vì thế, một nhà sử học chia sẻ với tôi: “Putin đã sai lầm khi coi Ukraine cũng là một thể chế cai trị tập trung như Nga. Mất Sa hoàng là tất cả sẽ sụp đổ. Ông ta định đánh nhanh thắng nhanh, bắt hoặc giết Zelenskiy để biến Ukraine thành rắn mất đầu. Nhưng Ukraine là tổ hợp những tỉnh thành (oblast) với bản sắc, danh dự, niềm tự hào và quyền tự trị riêng biệt. Kể cả Zelenskiy bị giết thì những thống đốc và thị trưởng sẽ tiếp tục cùng người dân chiến đấu.”
Như vậy, những nhà lãnh đạo miền Đông Nam Ukraine quay xe chủ yếu vì Nga đã xâm lược thành phố của họ, tàn sát người dân của họ. Giống như các thành bang độc lập khi xưa, những thân vương trị vì thời Rus có nghĩa vụ bảo vệ người dân trong lãnh địa của mình, bất chấp việc họ chẳng ưa gì đại vương công Kyiv.

‘Yêu nước’ khác ‘yêu chính quyền’
Trong một bữa trưa tại Lviv, khi tôi vừa nhắc đến Zelenskiy, một chính khách lập tức ngừng cả ăn uống chỉ để phê phán tổng thống không tiếc lời. Hầu như tất cả các quan chức tôi gặp sau đó đều chê bai ông chẳng chút nể nang. Có người còn yêu cầu tôi đưa hết lên mặt báo cho hả giận.
Tuy nhiên, họ nhất quán trong việc coi Nga là quân xâm lược: “Zelenskiy xử lý rất tệ hại công việc nội bộ đất nước” – chính khách ở Lviv chia sẻ kèm theo cái nhăn mặt khó chịu – “Nhưng về đối ngoại, Zelenskiy là một tổng thống thời chiến, kiên quyết kháng Nga. Khó ai có thể làm tốt hơn ông ấy.”
“Trước chiến tranh, độ tín nhiệm của Zelenskiy suy giảm nghiêm trọng” – một chính khách ở Kyiv nói với tôi – “nhưng Putin đã sai lầm khi cho rằng ‘thái độ với Zelenskiy’ phản ánh ‘tình yêu với Ukraine’. Người dân ghét tổng thống không có nghĩa là họ sẽ đem cờ hoa ra đón chào quân đội Nga.”
Khi tôi chia sẻ câu chuyện này với một người gốc Việt ở đây, anh nhận xét: “Ở Ukraine, yêu quê hương và yêu chính quyền là hai khái niệm riêng biệt. Nó rất khác ở Việt Nam nơi nhiều người cho rằng ‘yêu nước’ chính là ‘yêu Đảng’. Nó cũng khác với Nga nơi ‘yêu nước’ chính là ‘yêu Putin’ – kẻ sẽ làm nước Nga vĩ đại trở lại. Putin sai vì ông ấy đã nhìn một đất nước dân chủ qua lăng kính chủ nghĩa tôn sùng cá nhân và dân tộc toàn trị.”

Hội đồng thị dân
Quay trở lại thế kỷ 9-13, song song với hệ thống chính trị phi tập trung và đa nguyên của Rus, một đặc thù văn hóa của người Slavic bản địa là hội đồng thị dân “viche” (vĕtše/veche, nghĩa là “phát biểu”). Thể chế này đóng vai trò kiểm soát quyền lực của tầng lớp thống trị người Rus. Hội đồng là nơi người dân đưa ra ý kiến cá nhân và quyết định tập thể. Họ thậm chí có thể mời hoặc trục xuất các thân vương người Rus.
Sau khi bị sáp nhập vào liên bang Ba Lan-Litva, thể chế hội đồng “viche” bị tổn hại nghiêm trọng. Sự phân quyền chỉ dành cho tầng lớp thống trị. Những người phản kháng chạy về phía các thảo nguyên nằm giữa vùng biên giới của những đế chế lớn. Từ thế kỷ 16-18, họ hình thành nên xã hội chiến binh du mục cossack (nghĩa là “người tự do”). Họ dũng cảm, tôn thờ tự do và có tinh thần vượt khó mãnh liệt của những kẻ phải sống sót trên thảo nguyên khắc nghiệt.
Là những nông nô trốn chạy áp bức và giới quý tộc có tinh thần phản kháng, người cossack căm ghét độc tài. Họ thừa kế thể chế hội đồng “viche” kiểu dân chủ sơ khai thời Rus, biến nó thành nền móng cho “hromada” và “rada” – một dạng cộng đồng tự quản và dân chủ trực tiếp.
Trong xã hội cossack, các thủ lĩnh không kế thừa quyền lực theo huyết thống mà qua bầu cử, thậm chí bị bãi nhiệm và trừng phạt. Ở cấp làng xã, người cossack bỏ phiếu bằng cách ném mũ lên trời. Pylyp Orlyk được coi là bản hiến pháp đầu tiên ở châu Âu quy định “tam quyền phân lập” để ngăn chặn độc tài. Hội đồng là nơi người dân chung tay duy trì các dịch vụ công như trường học và nhà thờ. Khi bị giới quan chức và người giàu bắt nạt, hội đồng giúp bảo vệ quyền lợi người nghèo.

Tinh thần dân chủ
Nền móng phân quyền và dân chủ giải thích cho hiện tượng hầu như ai ở Ukraine cũng có thể phê phán Zelenskiy, kể cả những người bỏ phiếu cho ông. Tôi cứ ngỡ đó phải là một tổng thống bất tài vô hạn nên mới bị chửi sấp mặt như vậy. Nhưng tỷ lệ tín nhiệm của Zelenskiy vẫn là 67%. Hóa ra người Ukraine coi tất cả các tổng thống là “phường ăn hại” chứ chẳng cứ gì Zelenskiy.
Tháng 7/2025, tôi chứng kiến một phong trào biểu tình mạnh mẽ khi Zelenskiy hạn chế tính độc lập của hai cơ quan chống tham nhũng bằng cách đặt chúng dưới sự giám sát của Tổng công tố (do Tổng thống bổ nhiệm). Bất chấp lệnh thiết quân luật, hàng nghìn người đã xuống đường khiến Zelenskiy phải lùi bước chỉ sau hai ngày.
Marina 17 tuổi, nhỏ xíu và trắng muốt như một con búp bê bằng sứ. Cô bé mất 4 tiếng đi từ nhà tới Kyiv để biểu tình. Bằng một thứ tiếng Anh thuần thục, cô học trò đến từ một thị trấn hẻo lánh nói với tôi: “Ukraine chỉ có thể là một phần của châu Âu nếu các chế tài chống tham nhũng được thực thi. Ok, đất nước đang có chiến tranh nên chưa thể bầu tổng thống mới. Nhưng cái gì cũng có giới hạn. Và ‘hôm nay’ là giới hạn.”
Đi cùng Marina là người chị họ 32 tuổi – một chuyên viên kiểm định tin giả. Cô nói: “Tinh thần cách mạng đã ăn vào máu người Ukraine. Chúng tôi ghét mọi kẻ thống trị, mọi ông tổng thống. Là một dân tộc bị đô hộ, chúng tôi luôn phản kháng quyền lực và nghi ngờ các thiết chế nhà nước. Họ nói gì người dân cũng không dễ tin.”
Và đó chính là mặt trái của dân chủ trong bối cảnh hiện tại ở Ukraine. Trên mảnh đất màu mỡ của sự hoài nghi với chính quyền, những thuyết âm mưu mọc lên như nấm, không ít trong số đó được nhào nặn bởi bàn tay của Nga: “Zelenskiy là điệp viên KGB”; “Zelenskiy bán Crimea cho Nga”; “Zelenskiy cố tình kéo dài chiến tranh để nhận viện trợ châu Âu bỏ túi riêng”; “Zelenskiy không muốn hòa bình vì sẽ có bầu cử và thay tổng thống”…
Quả thật, hầu như tất cả những người tôi gặp đều cảnh báo: “Quần chúng ngu lắm”; “Đừng tin ai”; “Chẳng ai nói thật”; “Chẳng ai khách quan”. Nhưng hầu như ai cũng cho mình là chân lý.
“Ngoài thuyết âm mưu ra thì điều gì khiến một chuyên viên thẩm định tin giả lo lắng nhất?’ – Người chị họ lảng tránh câu hỏi của tôi. Lựa lúc bé con 17 tuổi đi ra ngoài, cô nói: “Việc phanh phui các vụ án tham nhũng khi quân dân đang đổ máu là một sự dũng cảm, nhưng lợi bất cập hại. Khi có chiến tranh, dân chủ chưa chắc đã là điểm mạnh. Không chỉ chính nghĩa, mà bên nào độc tài hơn, sát máu hơn, che giấu sự thật giỏi hơn, bên đó sẽ chiến thắng.”

Xã hội dân sự và cộng đồng tự quản
Câu nói đó khiến tôi day dứt không yên, cho đến khi tôi gặp lại nhà sử học. Sergyi nhắc tôi đừng quên những nền tảng của hội đồng thị dân trong lịch sử Ukraine, từ “viche” thời Viking Rus, đến “rada” thời chiến binh cossack, cho tới hệ thống 1469 “hromada” của Ukraine hiện nay. Sau 4 năm kháng chiến, điều giúp người Ukraine trụ lại một cách kiên cường, bền bỉ chính là vì người dân đã chủ động kiến thiết lại xã hội trên nền tảng của những cộng đồng tự quản như vậy.
Quay trở lại năm 2014, Nga sáp nhập Crimea và chống lưng cho lực lượng ly khai vùng Donbas. Thời điểm đó, quân đội chính quy của Ukraine là sản phẩm của hai thập kỷ hậu Xô Viết. Vũ khí lỗi thời, tham nhũng tràn lan, hệ thống an ninh bị tình báo Nga thao túng, lính đào ngũ hàng loạt, cả nước chỉ còn vài nghìn quân sẵn sàng chiến đấu.
Đối mặt với sự sụp đổ của quân đội chính quy, nhiều hội nhóm và hàng nghìn thường dân đã tự trang bị vũ khí, hình thành các đơn vị dân phòng tình nguyện chống lại phe ly khai. Họ gánh vác phần lớn các cuộc giao tranh ban đầu ở Donbas chứ không phải lính chính quy. Mặc dù một số nhóm dân quân như Azov và Aidar có cả thành phần cực hữu và tân phát xít – chủ đề của những kỳ sau – tuy nhiên, tinh thần tự nguyện chính là di sản của nền Cộng hòa Cossack và truyền thống tự trị của Ukraine.
Tám năm sau, Nga bất ngờ đánh thẳng vào Kyiv khiến quân đội chính quy trở tay không kịp. Gần 100.000 dân thường lại lập tức trở thành dân quân tự vệ. Sau gần bốn năm chiến tranh, dù đã cạn kiệt nguồn binh sĩ, nhưng tinh thần tình nguyện trong dân chúng vẫn cháy bền bỉ. Có 80% người dân đã quyên góp tiền riêng để hỗ trợ quân đội. Thậm chí với một số rất ít người dù không coi Nga là quân xâm lược, nhưng họ vẫn tham gia cứu trợ, đùm bọc dân tản cư, xây lại nhà bị bom đạn tàn phá.
Tôi đã gặp một bà giáo sư (về văn học Nga) kêu gọi được 3 triệu đô la cho tiền tuyến. Tôi đã gặp hai chàng trai có biệt danh “đít thép” vì họ thường lái những chiếc xe bán tải gần 3.000 cây số từ Anh về Ukraine chỉ trong hai ngày để tặng cho quân đội. Tôi đã gặp một cô gái gốc Việt kêu gọi bạn bè dùng tiền mua quà sinh nhật cho mình để đóng góp vào quỹ chiến tranh. Tôi đã gặp một doanh nhân người Việt than thở rằng: “Chị phải xếp hàng chờ tới lượt nấu cơm cho bộ đội, tại nhiều người đăng ký quá. Phải chi mình là chủ tiệm mát xa thì không phải chờ. Vì họ đưa nhân viên đến tận mặt trận để giúp bộ đội giảm đau.”
“Ở nơi em sống, chính phủ phải lo hết đúng không?” – một Việt Kiều khác hỏi tôi – “Nhưng Ukraine mới thoát Nga hơn 30 năm thôi. Người dân vẫn luôn nghi ngờ những lãnh đạo thân Nga vì lợi lộc cá nhân. Thế nên tiền ủng hộ tiền tuyến càng đi đường tắt càng hiệu quả. Ở Việt Nam cũng thế thôi em. Gặp thiên tai bão lũ người dân thường quyên góp theo hội nhóm và những người nổi tiếng họ tin cậy, chứ Mặt trận Tổ quốc đâu phải là nguồn tiền vào chủ đạo?”
Có lần, facebook của tôi xuất hiện một nhóm binh sĩ Ukraine gốc Việt ngỏ lời nhờ bà con hỗ trợ mua áo chống đạn. Ngay lập tức rất nhiều người nhận lời. Ở Ukraine, việc dân chúng mua quân nhu là điều rất bình thường. Thậm chí những quỹ lớn như “Повернись живим” (Trở về bình an) và Serhiy Prytula mua cả vũ khí – một vai trò thường do chính phủ đảm nhiệm.
Nguyên nhân không chỉ là ngân sách chiến tranh thiếu hụt hay sự bất tín nhiệm với bộ máy chậm chạp và tham nhũng của chính quyền. Đó còn là truyền thống tự quản, tự nguyện và niềm tin vào khả năng tham chiến, tự mình bảo vệ quê hương với tinh thần “viche”, “rada” và “hromada” – những nền tảng xã hội dân sự đã thấm vào văn hóa và tinh thần của người Ukraine từ cả nghìn năm trước.
Hôm gặp Tùng “bộ đội”, tôi đi cùng một doanh nhân người Việt ở vùng miền Đông Kharkiv. Khi Tùng mở cốp xe cho tôi xem những thứ cậu chuẩn bị mang ra chiến trường, anh đặt tay lên lưng Tùng vỗ vỗ, miệng nhắc đi nhắc lại: “Cháu thiếu gì phải bảo ngay chú nhé.”
Tùng cười: “Dạ cháu vẫn đủ.”

Ghi chú về tác giả và tác phẩm: Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực Khoa học Não bộ ứng dụng vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa/Phát triển năng lực cá nhân. Loạt bài ghi lại những quan sát của tác giả sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (tháng 6-9/2025). Chuyến đi nhằm mục đích tìm hiểu văn hóa với tư cách cá nhân, độc lập, bằng chi phí riêng, phi lợi nhuận, không có tài trợ hoặc liên kết hợp tác với bất kỳ tổ chức nào. Tên một số nhân vật đã được thay đổi.
_____
Bài liên quan:
Bài 1 – Chiến tranh hay hòa bình?
Bài 2 – Đổ nát – sự hủy hoại tinh thần của cuộc chiến
Bài 3 – kiên cường, sống chung với bão