Nguyễn Hoàng Văn
Theo Tiengdan
Liệu, từ đây, tiếng Việt sẽ… xanh hơn theo chỉ thị từ cấp cao nhất là phải “phủ xanh thông tin tích cực”? [1]
Có cái gì là lạ, khác thường chăng? Từ góc độ cộng đồng, về phía người đọc thì những “tin tích cực”, nếu không gắn liền với màu cờ sắc áo hay tình cảm bè phái, lại là những tin tức chán phèo, chẳng ai cho phép lọt lỗ tai. Mặt khác, từ góc độ của nghề thông tin, thì khi một con chó cắn người, sự thể khó mà cấu thành một “tin”, nhưng khi con người quay sang cắn con chó, vấn đề mới đáng để làm tin.
Nhưng khi phải “phủ xanh thông tin tích cực” thì chỉ được phép đề cập đến những việc như chó vẫy đuôi mừng chủ, người vẫy tay hay vẫy “đuôi” mừng người, tuyệt không nhắc đến việc người cắn người, nhất là khi cắn nhau như chó cắn.
Nhưng “màu xanh thông tin” tưởng là mới mẻ này cũng chẳng có gì độc sáng bởi, tận 73 năm trước, trong ca khúc “Gởi gió cho mây ngàn bay”, nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đã từng đề cập đến rồi:
Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian
Chúng ta viết thư là để, đầu tiên, truyền đạt thông tin và, cạnh đó, bày tỏ tình cảm nên, trước hết, “màu xanh lá thư” là gì nếu không phải là màu của thông tin? Tuy nhiên từ sắc “xanh” lãng mạn của những cánh thư giữa những người yêu nhau đến sắc xanh của những “thông tin” nhằm “củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân”, là cả một cuộc bể dâu.
Mà chỉ riêng trong ca khúc ấy thôi, khi tái điệp màu xanh trong một khổ nhạc khác, tác giả đã bày ra một sắc thái khác hẳn, từ chỗ nhẹ nhàng lãng mạn đến mức nồng nàn, say đắm:
Gửi phím tơ đồng tìm duyên
Gửi thêm lá thư màu xanh ái ân
Về đôi mắt như hồ thu
Nếu “màu xanh lá thư” tạo nên một cảm tưởng nhẹ nhàng thì “màu xanh ái ân” nồng nàn hơn và, có thể nói, trần tục hơn. Nhưng nếu thế thì có gì khác biệt giữa hai màu xanh đó?
Câu hỏi nảy sinh từ sự “mù màu” của tiếng Việt khi trời cũng “xanh” mà rừng cũng “xanh” và, thậm chí, sau cả một cuộc bể dâu, khi bãi biển biến thành nương dâu, cả cũ cả mới cũng vẫn “ngắt một màu”. Nói theo những nhà ngôn ngữ học thì, trong chuyện này, “cái được biểu đạt” có thể khác nhau nhưng “cái biểu đạt” lại như nhau, muốn phân biệt thì phải minh định bằng xuất xứ biển hay lá rừng.
Nhưng có mơ hồ như thế thì các nghệ sĩ mới có thể sáng tạo, biến hóa với những màu xanh viết khác nhưng thấy khác, như Việt Dzũng trong bài hát “Tìm lại màu xanh”:
Rừng xanh, xanh thắm con sông dài
Trời xanh, xanh cánh chim ngàn khơi
Tuổi xanh, xanh thiết tha tà áo
Mắt xanh màu ánh sao, tóc xanh những mái đầu
Màu xanh nay biết đâu ta tìm.
Màu xanh nay trắng lên vành khăn.
Màu xanh nay tím lên ngàn lối, biết bao giờ cho nguôi, để cho màu xanh về
Rừng xanh, sông xanh, trời xanh và cánh chim xanh màu ngàn khơi. Những cánh chim biển, dẫu có trắng đen hay nâu, xám thì, cuối cùng, cũng như cánh buồm nâu của Nguyễn Bính trong bài thơ “Không đề”:
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm
Anh đi đâu, về đâu đố ai biết được, chỉ biết trước mắt thuyền anh đang xa dần, xa dần để cánh buồm nhỏ dần, mờ dần, mất màu và mất hút trong cái mênh mông của biển cả, ở điểm cuối của tầm nhìn, như là giới hạn tận cùng. “Cánh chim ngàn khơi” cũng vậy, cũng xa dần, xa dần rồi hòa tan vào màu của khơi xa, như điểm tận cùng. Nhưng cái màu xanh “nay biết đâu ta tìm” thì không hề mất hút bở đã hòa tan vào sự vô cùng hay bất tận mà, đáng nói hơn, bị giết tươi một cách tức tưởi ngay giữa tầm nhìn, trong một không gian hữu hạn.
Không có con số chính xác nhưng có lẽ tác giả viết ca khúc trên đâu vào cuối thập niên 1970 hay đầu 1980 và từ đó đến nay đất trời đã trải qua bao nhiêu bể dâu với những mất mát đau đớn như thế? Rừng thì gần như bị cạo trọc. Sông thì bị chặt khúc, thậm chí còn bị cắt cổ như Sông Ba ở Phú Yên và sắc “xanh” trở nên nhức mắt với màu sỏi cát, bùn khô hay bụi đỏ. Giữa một không gian như thế mà muốn tìm lại màu xanh thì chỉ có thể ngước mắt nhìn lên, như thể cầu trời.
Nên tôi nhớ lại cảm giác khó chịu ở tuổi thiếu niên, lúc còn là một học sinh lớp 9 vào cuối thập niên 1970, khi phải vật lộn để phân tích bài thơ ‘Ta đi tới” trong một kỳ thi:
Ờ đã chín năm rồi đấy nhỉ!
Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ
Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân.
Ngẩng đầu lên: trong sáng tuyệt trần
Tháng Tám mùa thu xanh thắm
Mây nhởn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp lắm!
Mây của ta, trời thắm của ta
Một bầu trời “xanh thắm” và “trong sáng tuyệt trần” mà lại “mây nhởn nhơ bay”? Tại sao Tố Hữu lại tham lam, cái gì cũng muốn dẫu là hai thứ mâu thuẫn nhau, vừa muốn trời trong xanh thắm “tuyệt trần”, vừa muốn mây Thu nhơ nhởn bay bay, mà là mây đã xác định rõ chủ quyền? Và tại sao những quan chức giáo dục cung cúc chiều chuộng Tố Hữu bất kể việc làm khó học trò khi đưa bài thơ với một ý tứ ngớ ngẩn như thế vào chương trình, thậm chí còn chọn làm đề thi?
Xem ra tôi, mới có mười mấy tuổi, đã lờ mờ phát hiện ra điều mà mấy chục năm sau Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến mới chỉ ra như là “sự yếu kém” và “tê liệt” trong “giác quan về sự ngớ ngẩn” của giới thức Việt Nam. Trong cuộc phỏng vấn năm 2004 nhà hàn lâm này bày tỏ:
“Tôi có một luận điểm: Ở trí thức Việt Nam, giác quan về sự ngớ ngẩn rất yếu, trước một câu nói ngớ ngẩn thường không có phản ứng gì hết, vì không nhận ra là ngớ ngẩn. […] Cái mục ruỗng của học thuật nước mình là ở đó, chứ những chuyện như làm bài thuê, mua tiến sĩ không đáng sợ lắm đâu. Đáng sợ nhất là giác quan về sự ngớ ngẩn gần như bị tê liệt” [2].
Nếu đó là sự “mục ruỗng” và “tê liệt” của lý trí thì có một tình trạng mục ruỗng và tê liệt tương tự nhưng nghiêng về phía của con tim và liên quan đến cuộc dâu bể của màu xanh đang đề cập. Đó là khi sắc xanh vời vợi của núi rừng biên giới … tai tái trên mặt của người quân nhân số một.
Hãy nhớ lại năm 1980, khi Hiến pháp nước CHXHCNVN khẳng định “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”. Đó cũng là năm mà, trong thơ và trong nhạc, biên giới phía Bắc của chúng ta chợt xanh lên, xanh hơn bất cứ nơi nào của đất nước, theo ca khúc mà Trần Chung phổ từ bài thơ “Chiều biên giới” của Lò Ngân Sủn:
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào xanh hơn
Nhưng chưa đầy một phần tư thế kỷ sau là cả một sự “mục ruỗng” và “tê liệt” của cuộc dâu bể màu xanh. Khi lời thách thức phản ngoại giao của Hiến pháp năm xưa bị tẩy xóa thì cũng là lúc giới thượng tầng quyền lực trở nên… xanh hơn, tai tái trên khuôn mặt, cả với nhân vật lẽ ra phải cứng cỏi là nguyên Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.
Ngày 29/12/2014, trong “hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015”, ông đại tướng bày tỏ:
“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc” [3].
Rõ ràng là đại tướng đang… xanh mặt trước sự hung hăng của Trung Quốc. Nhưng, cũng rõ ràng không kém, đại tướng còn xanh mặt bởi nhân dân, những người thức tỉnh, đang đỏ gay mặt mày, cái màu đỏ tượng trưng trên sắc diện những vai trung của sân khấu hát bội.
Và cho đến bây giờ, với chuyện dâu bể mới của màu xanh, điểm mấu chốt của vấn đề cũng vậy, cũng là bậc bề trên xanh mặt trước thái độ “trung hiếu” của muôn dân bên dưới. Thông tin phải được phủ xanh là, chẳng qua, để tránh né cái cảnh nhân dân bùng nổ trước những sự thật phũ phàng, khó mà chấp nhận, như sự thật về sự mua bán và tiêu diệt màu xanh, sự thật về tình trạng người cắn người, mà là cắn xé còn tệ hơn và bẩn hơn cả chó cắn.
Tái mặt trước kẻ thù, lại tái mặt trước sự thật, với họ, sự thật chính là một mối đe dọa và, do đó, cũng bị liệt vào danh sách kẻ thù.
Tham khảo:
1. “Phủ xanh thông tin tích cực trước Đại hội XIV”: https://congthuong.vn/phu-xanh-thong-tin-tich-cuc-truoc-dai-hoi-xiv-434251.html
2. https://www.procontra.asia/?p=6179
“Hoàng Ngọc Hiến – Cái nước mình nó thế”, bài phỏng vấn do Phạm Thị Hoài và Trương Hồng Quang thực hiện năm 2004, đăng trên trang Pro&Contra năm 2019.
3. “Xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc”: https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-ngoai/xu-the-ghet-trung-quoc-nguy-hiem-cho-dan-toc-84289.html