Khi phê bình văn học trượt sang hành vi chụp mũ

Nguyễn Quốc Chính 

Theo Boxitvn

Phản biện là cần thiết.

Nhưng khi phản biện trượt sang chụp mũ, thì đó không còn là văn chương nữa.

Và khi ấy, vấn đề không nằm ở tác phẩm, mà nằm ở người đọc đã bước quá xa khỏi sự trung thực trí tuệ.

Có một sự thật cần được khẳng định ngay từ đầu, dứt khoát và không nước đôi: Trong tiểu thuyết Nỗi buồn Chiến tranh của Bảo Ninh, không có bất kỳ đoạn văn, câu chữ hay mệnh đề nào viết rằng bộ đội hiếp Phương.

Điều này không phải ý kiến cảm tính, mà là một факт (thực tế) văn bản. Ngay cả những người phản đối gay gắt tác phẩm cũng buộc phải thừa nhận: “Về mặt câu chữ, văn bản không hề nói như vậy”.

Vậy câu hỏi đặt ra là:

Khi văn bản không viết, nhưng người đọc vẫn cố gán, thì đó là phê bình văn học hay là hành vi bôi xấu một lực lượng xã hội cụ thể?

1. Từ “cách đọc” đến quy kết: một bước trượt nguy hiểm

Những bài viết gần đây bênh vực quan điểm “người đọc có cơ sở để hiểu bộ đội hiếp Phương” thường dựa vào một lập luận quen thuộc: Văn chương không chỉ vận hành bằng câu chữ trực tiếp, mà bằng không gian, trường nghĩa, hiệu ứng đạo lý. Vì tác giả làm mờ chủ thể, nên người đọc “có quyền” nghi ngờ.

Lập luận ấy, nghe qua có vẻ học thuật, nhưng thực chất là một sự đánh tráo khái niệm.

Trong phê bình văn học, diễn giải là làm rõ nghĩa mà văn bản gợi ra; còn quy kết là gán cho văn bản – và rộng hơn, cho một chủ thể xã hội – một mệnh đề đạo đức mà văn bản không xác lập. Hai việc này hoàn toàn khác nhau.

“Nỗi buồn Chiến tranh” mô tả một bi kịch chiến tranh, nơi cái ác hiện lên vô danh, hỗn loạn, phi lý. Bảo Ninh làm mờ chủ thể để nhấn mạnh sự huỷ hoại của chiến tranh đối với con người nói chung. Ông không viết về sự tha hoá của một lực lượng mang tính biểu tượng quốc gia, và càng không viết về một tội ác cụ thể gắn với bộ đội.

Việc từ “chủ thể mờ” suy sang “bộ đội có thể là thủ phạm” không phải là diễn giải văn bản, mà là suy đoán mang tính cáo buộc.

2. Trộn không gian không đồng nghĩa với trộn trách nhiệm đạo đức

Một lập luận khác thường được viện dẫn là: trên chuyến tàu có nhiều thành phần – bộ đội, thanh niên xung phong, dân thường, trộm cướp – nên nếu xảy ra một vụ hiếp, thì “về nguyên tắc” tất cả đều là đối tượng nghi vấn.

Đây là lập luận sai cả về văn học lẫn logic xã hội.

Văn học không vận hành theo nguyên tắc điều tra hình sự. Không thể vì một lực lượng xuất hiện trong cùng không gian mà nghiễm nhiên trở thành chủ thể bị nghi vấn cho một tội ác, nhất là khi tội ác đó không hề được quy thuộc trong văn bản.

Nếu chấp nhận logic ấy, thì trong bất kỳ tác phẩm chiến tranh nào có mô tả bạo lực, hễ có bộ đội xuất hiện, bộ đội đều có thể bị đặt vào vòng nghi vấn đạo đức. Đó không phải là phê bình, mà là một kiểu suy diễn nguy hiểm, dễ dẫn tới bôi nhọ tập thể.

3. “Hiệu ứng văn bản” không phải là giấy phép gieo nghi ngờ chính trị

Một câu được lặp lại nhiều lần: “đây không phải vu khống, mà là hệ quả của cách tổ chức văn bản”.

Câu này cần được nói thẳng: sai.

Hiệu ứng văn bản chỉ có giá trị khi văn bản tạo ra một mệnh đề. Ở đây, mệnh đề “bộ đội hiếp Phương” không tồn tại. Việc cố tình hợp thức hóa một liên tưởng gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam không còn là vấn đề học thuật, mà là vấn đề trách nhiệm xã hội của người viết.

Dù được bọc trong ngôn ngữ phê bình, việc gán một tội ác ghê gớm cho lực lượng mang Chính Nghĩa lịch sử, khi văn bản không hề viết như vậy, vẫn là hành vi bôi xấu.

4. Phản biện không phải là quyền bịa ra cáo buộc

Có ý kiến cho rằng gọi những cách đọc như vậy là “hiếp văn chương” là bịt miệng phản biện. Nhưng cần nói rõ: phản biện không phải là quyền bịa ra một mệnh đề mà tác giả không viết, rồi yêu cầu xã hội phải chấp nhận mệnh đề ấy như một khả năng “hợp pháp”.

Trong truyền thống phê bình nghiêm túc, nhiệm vụ của nhà phê bình là chặn những cách đọc nguy hiểm, chứ không phải mở đường cho chúng rồi đổ trách nhiệm cho văn bản.

Bảo vệ ranh giới văn bản không phải là độc quyền diễn giải. Đó là bảo vệ kỷ luật học thuật.

5. Kết luận

Có thể tranh luận gay gắt về Nỗi buồn Chiến tranh. Có thể không đồng tình với cách Bảo Ninh nhìn chiến tranh. Nhưng có một ranh giới không được vượt qua: Không được gán cho tác phẩm điều nó không viết, rồi dùng sự gán ghép ấy để gieo nghi ngờ đạo đức đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Phản biện là cần thiết.

Nhưng khi phản biện trượt sang chụp mũ, thì đó không còn là văn chương nữa.

Và khi ấy, vấn đề không nằm ở tác phẩm, mà nằm ở người đọc đã bước quá xa khỏi sự trung thực trí tuệ.

N.Q.C.

Nguồn: FB Nguyễn Quốc Chính

*

Đọc thêm: 

Ai hiếp Phương?

Phạm Xuân Nguyên

(Đầu đề bài này không phải tôi muốn giật gân, mà vì tôi muốn đặt thẳng câu hỏi để bàn luận vấn đề.)

Trong tiểu thuyết “Nỗi buồn Chiến tranh” (NBCT) có chi tiết Phương bị hãm hiếp trên chuyến tàu hoả đi cùng Kiên vào phía Nam. Những người phê phán cuốn tiểu thuyết dữ dội mấy ngày qua cho rằng tác giả đã mô tả vụ hãm hiếp này do bộ đội gây ra, vì thế họ đã cáo buộc và đòi xét xử nhà văn Bảo Ninh về tội đã xúc phạm đến quân đội nhân dân Việt Nam. 

Sự thật thế nào?

Chi tiết này nằm trong đoạn hồi ức của Kiên về cuộc gặp Phương trước lúc lên đường vào chiến trường. Sự việc bắt đầu được nói đến ở trang 183 (trong bản in sách lần đầu tiên của NBCT năm 1990 với tên gọi “Thân phận của tình yêu”, tôi trích dẫn theo bản này).

Trình tự diễn biến:

– Sau ba tháng huấn luyện, Kiên cùng đơn vị được lệnh lên đường đi B ngay. Từ Yên Thế lính hành quân “như gió cuốn” về Hà Nội, từ đây họ sẽ được ngồi tàu hoả vào đến Vinh.

– Tới ga Văn Điển, vì phải chờ tàu quân sự nên còn “dôi ra ba giờ đồng hồ”. Tiểu đoàn trưởng thông cảm với những người lính có nhà ở Hà Nội nên cho họ tranh thủ ghé qua nhà, “lúc bấy giờ là bốn giờ chiều, hạn tới sáu rưỡi phải có mặt để lên tàu. Chậm một phút coi như đào ngũ” (tr.184).

– Kiên về nhà thì nhà đã đi sơ tán. Gặp một người quen Kiên biết tin Phương đã vào đại học, vừa quay về chịu tang mẹ, và cũng vừa rời đi. Chắc là ra ga đi tàu.

– Kiên ra ga Hàng Cỏ, không biết Phương có đây không, mà có thì biết tìm đâu. Bỗng khi chuyến tàu đi Thái Nguyên chuyển bánh thì sự tình cờ số phận đã cho Kiên thấy Phương. Phương không lên trường nữa, ở lại cùng Kiên.

– Phương giục Kiên về lại nhà. Nhưng Kiên phải trở lại đơn vị. Cả hai gọi một chiếc xích lô chở từ ga Hàng Cỏ đến ga Văn Điển. Đến nơi thì chuyến tàu quân sự của Kiên đã rời ga mấy phút trước. Nhân viên nhà ga bảo chuyến tàu đó có thể dừng chốc lát ở ga Đồng Văn hoặc Phủ Lý gì đó. 

– Kiên và Phương đi nhờ một chiếc xe tải đuổi theo tàu. Xe thả họ xuống ga Đồng Văn. Vừa lúc có một chuyến tàu vào ga, cả hai tưởng đấy là chuyến tàu quân sự của Kiên. Nhưng đấy là TÀU HÀNG: “Một toa sàn, lại một toa sàn nữa. Những kiện hàng chất cao phủ bạt. Toa nữa, vẫn toa sàn với mấy cỗ pháo. Toa sau là toa đen có mui nhưng cửa khoá. Ghé nhìn qua kẽ hở thành toa. Chắc chắn là không có người ở trong. Tàu hàng! – Cả hai cùng thốt lên” (tr.196).

– Phương giục Kiên lên tàu này đuổi theo cho kịp: “Hay cứ lên tàu này? – Phương nói – Cũng vào Vinh, mà sau tàu kia có hai mươi phút. Đúng đấy. Đi xem có toa nào hé cửa thì lên, không thì bám toa sàn cũng được, Kiên ạ. Đi được thôi, đừng lo! Đến Vinh, anh sẽ gặp được đồng đội thôi mà.” (tr.190). Và lần đến giữa đoàn tàu, thấy một toa đen cửa mở hé, cả hai leo lên.

– “Đêm ấy, tàu không dừng ở một ga lớn nhỏ nào, chỉ đôi lần đỗ nhanh vài phút trong bóng đêm giữa đồng trống, vậy mà người từ đâu chẳng biết cứ lèn lên toa. BỘ ĐỘI, THANH NIÊN XUNG PHONG TỤT TẠT, LẠC NGŨ VÀ CẢ DÂN THƯỜNG, DÂN BUÔN, CẢ BỌN TRỘM CƯỚP ĐƯỜNG TRƯỜNG. NHƯ LÀ TÀU CHỢ. ĐÈN PIN QUÉT, DIÊM THUỐC BỪA PHỨA. HƠI NGƯỜI” (tr.206).

– Trên chuyến TÀU HÀNG ấy “Kiên và Phương chắc chắn là hai kẻ quá giang liều chết nhất”. Họ ôm nhau ngủ mà không dám đi đến giới hạn cuối cùng. Phương thì thầm với Kiên: “… Hai đứa mình, Kiên ơi… Có thể đến khi chết đi vẫn còn trong trắng… Vậy mà chúng mình yêu nhau biết là ngần nào…” (tr. 208).

– Chuyến tàu chạy trong đêm đã qua Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình thì bị bom. Hơi bom làm cửa toa có Kiên và Phương bật ra, mọi người xô nhau lao ra ngoài. Kiên bị giúi tới cửa toa. Chợt nhớ tới Phương, Kiên cố níu lại nhìn vào trong toa. Vừa khi ấy máy bay thả pháo sáng. Và đây là cảnh tượng Kiên thấy trong toa tàu khi ấy:

– “Dưới ánh pháo sáng, lòng toa như cái nhà kho bị đảo tung. Mọi vật hiện lên rõ mồn một nhưng tái nhợt, ma quỷ như hình thù trong phim âm bản. PHƯƠNG NẰM SẤP TRÊN SÀN, KIÊN NHÌN THẤY THẾ, HAI TAY NÀNG CHỐNG XUỐNG NHƯ ĐANG CỐ NHỔM DẬY, MẶT NGƯỚC LÊN, ĐÔI MẮT MỞ TO DẠI ĐI TRƯỚC LÀN ÁNH SÁNG ÙA VÀO. TÓC NÀNG ĐỔ XOÃ RA. NHƯNG KIÊN NGÂY CỨNG TOÀN THÂN. ANH KHÔNG HIỂU. ANH KHÔNG TIN VÀO MẮT MÌNH. BỞI VÌ… MIỆNG PHƯƠNG ANH THẤY BỊ MỘT BÀN TAY TO XÙ BỊT CHẶT. Trong tiếng rú của máy bay bổ nhào, trong cảm giác một cái chết tan xương đang trực diện lao thẳng xuống, mất trí đi vì khiếp sợ, KIÊN THẬM CHÍ KHÔNG HIỂU TẠI LÀM SAO LẠI CÓ MỘT THÂN HÌNH ĐEN TRŨI KỀNH CÀNG NÀO ĐÓ ĐANG NẰM ĐỔ ẬP LÊN NGƯỜI PHƯƠNG NHƯ VẬY, LẠI ĐANG DÙNG TAY BÓP LẤY MẶT NÀNG NHƯ VẬY, ý nghĩa của cảnh tượng thô bạo đó, anh chỉ kịp thấy là nó bất thường. Ngu xuẩn và đớn nhát, Kiên há hốc miệng ra định kêu mà chẳng biết là định kêu cái gì.” (tr.209-210).

Toàn bộ khung cảnh Phương bị hiếp trong tiểu thuyết NBCT đã được Bảo Ninh tái hiện qua hồi ức của Kiên là vậy. Ai hiếp Phương? “Một thân hình đen trũi kềnh càng”, Kiên thấy thế, Bảo Ninh viết thế. 

Ở đoạn sau, hồi ức lại đưa Kiên về sự việc này. Khi Kiên tìm lại được toa tàu có Phương để đưa Phương xuống thì xuất hiện một gã ngăn lại, coi như Phương là của gã. “Đấy là một gã chừng ba mươi tuổi, khuôn mặt vuông bè, trán thấp, mũi to và tẹt, hàm vuông chằn chặn, cái cằm rất rắn, khoé miệng tàn nhẫn, đôi mắt tươi tỉnh long lên xấc xược. Y bận một cái áo dệt kim sọc xanh kiểu thuỷ thủ, chật căng, ngực và vai nổi múi lên những vồng thịt cuồn cuộn. Đây là một cơ thể khoẻ ghê gớm, đầy tự hào về sức mạnh, và chắc chắn ĐÂY LÀ MỘT TẤM THÂN TÀN BẠO.” (Tr. 246).

Đoạn văn này cùng toàn bộ diễn biến hành trình đuổi theo đơn vị của Kiên có Phương đi cùng mà tôi chẳng đặng đừng phải tóm tắt cụ thể (những chỗ chữ to là của tôi nhấn mạnh) cho những ai không đọc NBCT hoặc đọc mà không thấy, hoặc tàn tệ hơn có đọc có thấy nhưng cố tình xuyên tạc, bóp méo để vu cáo, đã cho người đọc biết rõ: KẺ HIẾP PHƯƠNG TRÊN TÀU HOẢ KHÔNG PHẢI LÀ BỘ ĐỘI. Đọc đoạn văn mô tả cụ thể kẻ muốn chiếm hữu Phương tôi cứ nghĩ Bảo Ninh từ hơn ba chục năm trước đã lường có ngày mình bị quy chụp, cáo buộc, nên đã chuẩn bị trước cho mình bằng chứng văn chương. 

Vậy ai đã đổ tội cho bộ đội hiếp Phương trong tiểu thuyết NBCT? Câu trả lời đã có ở các ý kiến của những người phê phán, cáo buộc, đòi xét xử NBCT trên mạng xã hội thời gian qua.

Và với cách đọc văn như vậy, cho phép tôi nói thẳng, những người đó đã “hiếp” NBCT, “hiếp” văn chương.

Hà Nội, 18/12/202

P.X.N.

Nguồn: FB Nguyen Pham Xuan

Bình luận về bài viết này