Từ vụ việc ai là tác giả bức ảnh ‘Em bé Napalm’, nghĩ về vụ Hồ Duy Hải

Ngô Ngọc Trai

Theo Tiengdan

Mới đây xem được bộ phim The Stringer nói về ai là tác giả chụp bức ảnh Em bé Napalm khiến gợi lên trong mình nhiều suy nghĩ.

Bức ảnh em bé Napalm là một trong số những bức ảnh nổi tiếng nhất về chiến tranh Việt Nam, góp phần thúc đẩy làn sóng phản chiến ở nước Mỹ góp phần đưa tới kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam.

Bức ảnh được hãng thông tấn AP công bố năm 1972 được cho là do phóng viên chiến trường Nick Út của AP chụp, năm 1973 bức ảnh nhận được giải thưởng danh giá Pulitzer của hiệp hội ảnh báo chí quốc tế Mỹ.

Sự nổi tiếng và sức ảnh hưởng của bức ảnh đã đem tới hào quang cho tác giả Nick Út, cùng với em bé Napalm là cô Phan Thị Kim Phúc, cả hai đã bước lên những bậc vinh quang, đã gặp gỡ lãnh đạo các quốc gia, được đón tiếp bởi những Tổng thống và cả Đức Giáo Hoàng.

Ngay cả ở Việt Nam sách báo bấy lâu nay cũng đều ghi nhận tác giả bức ảnh em bé Napalm là của tác giả Nick Út. Có thể nói trong suốt mấy chục năm không có ai đặt ra nghi ngờ gì về tác giả của bức ảnh.

Nhưng mới đây một nhóm đoàn làm phim đã công bố những nghiên cứu đánh giá mới của họ cho rằng người chụp bức ảnh là một người khác.

Người khơi lại câu chuyện này là một nhà báo của chính hãng thông tấn AP, ông là người đã làm việc ở tòa soạn báo AP tại Việt Nam, là người đã rửa bức ảnh. Ông có vợ khi ấy là người Việt Nam, cũng khi đó ông chỉ là một nhân viên cấp thấp trong tòa soạn báo thực hiện công việc tráng phim rửa ảnh để cấp trên lựa chọn ảnh để đăng báo.

Nay đã là một ông già đang sống cùng người vợ tại thành phố Hồ Chí Minh, sau nhiều năm tháng suy nghĩ day dứt ông muốn công bố sự việc để như một lời xin lỗi tới tác giả người đã chụp bức ảnh.

Thông qua những người bạn làm báo ở Việt Nam ông đã tìm lại được người mà ông cho là đã chụp bức ảnh là ông Nguyễn Thành Nghệ. Ông Nghệ hiện sinh sống ở Mỹ, khi đó đã có mặt tại sự kiện đã chụp và bán cuộn phim cho hãng tin AP để lấy số tiền là 20 đôla.

Trong làng báo chí vốn thường có những phóng viên ảnh tự do, chụp ảnh cộng tác với các hãng tin. Những người thực hiện công việc như vậy có tên tiếng Anh được gọi là Stringer.

Nói thêm về ngày xảy ra sự kiện chụp bức ảnh thì chính quyền Việt Nam Cộng Hòa khi đó nhận được thông tin là có sự xuất hiện của bộ đội tại khu vực tòa thánh cao đài ở Tây Ninh, cách Sài Gòn khoảng 50km, các nhà báo khi nắm được thông tin và biết là sắp có sự kiện thì đã di chuyển tới đó để chuẩn bị lấy tin trước khi sự kiện nổ ra.

Các hãng tin của Mỹ, Anh và của Nhật Bản đã có mặt để chụp những bức ảnh, ngoài ra còn có cả những đoạn video ngắn còn được lưu lại cho tới nay.

Để đảm bảo tính khoa học chính xác đoàn làm phim The Stringer đã cung cấp các dữ liệu ảnh chụp và các đoạn video cho một tổ chức chuyên phân tích khoa học dữ liệu hình ảnh và họ đã chỉ ra cho thấy Nick Út không ở vào vị trí có khả năng chụp được bức ảnh Em bé Napalm.

Nội dung cụ thể mọi người có lẽ phải tìm xem bộ phim Stringer để hiểu được chi tiết. Trong phạm vi bài này mình chỉ đưa lại hai bức ảnh để mọi người thấy được, thứ nhất đó chính là bức ảnh Em bé Napalm chụp cảnh một số cháu nhỏ chạy phía trước với gương mặt biểu cảm sợ hãi đau đớn và những người lính đi phía sau.

Thứ hai là một ảnh khác chụp liền sau đó vài giây cho thấy một nhóm gồm năm nhà báo đã được xác định danh tính (Ba người quay phim và hai người làm âm thanh), ngoài ra thêm một người chụp ảnh đứng tách ra bên phía phải bức ảnh và đó là ông Nguyễn Thành Nghệ, nhóm các nhà báo này là những người đã đứng ở vị trí có thể chụp được bức ảnh Em bé Napalm.

Ảnh 2. Nguồn: Corbis

Các phân tích của chuyên gia cho biết trong nhóm nhà báo đứng ở vị trí đó không có nhà báo Nick Út và nhà báo Nick Út khi đó vẫn còn đang di chuyển lại từ phía xa và không ở vào vị trí có thể bắt chụp được khoảnh khắc bức ảnh em bé Napalm.

Sau khi bộ phim The Stringer được công bố thì World Press Photo, tổ chức có trụ sở ở Hà Lan và quản lý một trong những giải thưởng ảnh báo chí danh giá, đã tiến hành cuộc điều tra độc lập. Sau cuộc điều tra World Press Photo ngừng ghi nhận Nick Út là tác giả bức Em bé Napalm, cho rằng ảnh này có thể do người khác chụp (World Press Photo là tổ chức cũng đã trao giải thưởng bức ảnh của năm cho Em bé Napalm vào năm 1973, đây là giải thưởng khác với giải thưởng Pulitzer).

Điều mình thấy cảm kích từ câu chuyện này là sự tôn trọng đối với sự thật, tinh thần truy cầu tìm kiếm sự thật và tính thuyết phục của những phân tích đánh giá khoa học qua dữ liệu hình ảnh, điều mà người ta vẫn có thể làm rõ sau rất nhiều năm sau sự kiện diễn ra.

***

Bà Nguyễn Thị Loan, mẹ tử tù Hồ Duy Hải trên đường đi thăm gặp con ở Trại tạm giam. Nguồn: Ngô Ngọc Trai

Đánh giá tìm kiếm sự thật qua dữ liệu hình ảnh thì đó cũng là điều mình vốn trăn trở khi suy nghĩ kêu oan cho Hồ Duy Hải.

Như mọi người đã biết là trong vụ án Hồ Duy Hải nhiều vật chứng bị tiêu hủy như chiếc thớt gỗ, con dao, có vật chứng bị mất mát thất lạc như ghế gấp, mẫu máu thì bị hư hại do bỏ quên không được đưa đi giám định.

Cuối cùng chỉ còn lại những bức ảnh chụp hiện trường phần nào cho thấy sự thật khách quan, dựa vào đó mỗi người có thể đánh giá hình dung kể lại câu chuyện của mình.

Hiện trường gây án là không gian trong nhà Bưu điện Cầu Voi với nhiều vật dụng và nhiều vị trí mà thủ phạm có thể để lại dấu vết. Mình xem thấy đâu đó chia sẻ những bức ảnh hiện trường trong đó có ảnh chụp bộ bàn ghế tiếp khách (xem dưới còm) cho thấy trên chiếc bàn kính có hai túi hoa quả, tờ báo cũ, vài mảnh mút xốp và đặc biệt là một cốc nước vẫn còn vơi phân nửa.

Ảnh chụp bàn uống nước hiện trường Bưu điện Cầu Voi. Nguồn: Internet

Một ảnh khác chụp cận cảnh chiếc cốc uống nước có để tờ thước giấy ghi chú của Công an tỉnh Long An, cho thấy cán bộ điều tra khi chụp hiện trường đã lưu ý dấu vết ở vật chứng này rồi.

Một ảnh chụp cận cảnh cốc nước. Nguồn: Internet

Điều mình băn khoăn là sau đó vật chứng là chiếc cốc uống nước này đã được xử lý như thế nào, đã được lấy dấu vân tay và dấu vết dịch nước bọt người uống ra sao?

Theo biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án thì không có nội dung nào về việc cơ quan điều tra thu thập dấu vân tay hay dấu vết nước bọt trên chiếc cốc uống nước.

Trong các tài liệu tố tụng khác như Kết luận điều tra, Cáo trạng, Bản án sơ thẩm, Bản án phúc thẩm, Quyết định Giám đốc thẩm sau này cũng đều không nhắc tới việc thu thập dấu vết vân tay hay giám định ADN từ dịch nước bọt chiếc cốc uống nước.

Vật chứng cốc uống nước này như thế cũng là một vật chứng sơ sót bị bỏ quên.

Mặt khác, như mọi người đã biết, ngay sau khi vụ án xảy ra cơ quan điều tra đã xác minh xem buổi tối ngày hôm đó đã có những ai tới Bưu điện Cầu Voi và chứng kiến điều gì thì có được lời khai của hai nhân chứng quan trọng là Hồ Văn Bình và Vũ Đình Thường.

Nhân chứng Hồ Văn Bình khai rằng khoảng hơn 19 giờ đến gửi xe máy ở cửa Bưu điện Cầu Voi để đi bộ vào nhà một người quen gần đó, thấy một thanh niên ngồi trên ghế salon nói chuyện với hai cô gái, đến lúc đi ra lấy xe máy khoảng ngoài 19 giờ 30 phút vẫn thấy thanh niên đó ngồi nói chuyện.

Nhân chứng thứ hai là Đinh Vũ Thường đến Bưu điện để thực hiện cuộc gọi về Cà Mau có thấy một thanh niên ngồi trong Bưu điện, dữ liệu cuộc gọi còn lưu lại cho thấy thời điểm thực hiện cuộc gọi là lúc 19 giờ 39 phút 22 giây (Lời khai của hai nhân chứng Hồ Văn Bình và Đinh Vũ Thường đã được nêu trong Quyết định Giám đốc thẩm).

Giáp nối các sự kiện lại với nhau, chứng cứ ở hiện trường và lời khai của nhân chứng, thì cơ quan điều tra hẳn phải khẳng định hoặc đặt nghi vấn cao độ rằng người thanh niên ngồi nói chuyện với hai cô gái ở bưu điện đã được mời uống cốc nước đó, trên đó khả năng rất cao sẽ để lại dấu vân tay và dịch nước bọt của nghi phạm.

Khi giám định dấu vân tay và giám định AND vết nước bọt trên cốc uống nước, nếu so sánh đối chiếu không trùng khớp với dấu vân tay và ADN của hai cô gái nạn nhân thì khả năng rất cao đó là dấu vân tay và ADN của thủ phạm gây án.

Vậy nhưng khó hiểu là trong vụ án không thấy nhắc tới việc thu thập giám định dấu vết từ chiếc cốc uống nước.

Điều này tổng hợp lại với các sự việc khác mình thấy Hồ Duy Hải thật không may.

Dù bằng chứng dấu vân tay của Hải giám định cho kết quả không trùng khớp với dấu vân tay của nghi phạm thu được ở những vị trí khác ở hiện trường đã đủ là bằng chứng khoa học khách quan cho thấy Hải không phải là thủ phạm rồi, mà Hải vẫn bị quy cho là thủ phạm.

Ngoài ra, những bằng chứng khác có khả năng cho kết quả cùng xu hướng củng cố cho thấy Hải không phải là thủ phạm thì đều bị sơ sót tiêu hủy, thất lạc, hoặc vô tình không được làm rõ, mà dấu vân tay và dịch nước bọt trên chiếc cốc uống nước không được làm rõ là một ví dụ.

Bình luận về bài viết này