Putin và tham vọng “giải phóng” những “vùng đất lịch sử” bằng sức mạnh quân sự

Minh Phương

Theo RFI

Quyết tâm của tổng thống Nga bấu víu lấy chiến tranh dù các khoản dự trữ quốc gia đang dần cạn kiệt, tổng kết tình hình kinh tế của Mỹ và Pháp trong năm 2025, những phân tích để các nước đạt được sự tự chủ chiến lược, đó là những chủ đề chính được các báo Pháp số ra hôm nay, 19/12/2025, quan tâm.

Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu trong cuộc họp báo thường niên tại Gostinny Dvor, ở Matxcơva, Nga, ngày 19/12/2025.
Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu trong cuộc họp báo thường niên tại Gostinny Dvor, ở Matxcơva, Nga, ngày 19/12/2025. AP – Pavel Bednyakov

Về cuộc chiến Nga-Ukraina, tờ Le Figaro hôm nay chạy tựa “Vladimir Putin bác bỏ mọi thỏa hiệp và vẫn bấu víu lấy chiến tranh.” Trong một cuộc họp với các tướng lĩnh cấp cao của quân đội hôm thứ Tư, 17/12, ông Putin vẫn cáo buộc phương Tây là bên phải chịu trách nhiệm cho cuộc chiến, đồng thời gọi các đồng minh châu Âu của Kiev là “những chú lợn con”. Ông loại trừ mọi thỏa hiệp và khẳng định “chắc chắn” Nga sẽ đạt được các mục tiêu. “Chúng tôi muốn đạt được điều đó bằng con đường ngoại giao, nhưng nếu quốc gia đối địch và những người bảo trợ nước ngoài của họ từ chối tham gia vào các cuộc thảo luận thực chất”, thì Nga sẽ đạt tới việc “giải phóng” các “vùng đất lịch sử” của mình bằng sức mạnh quân sự. Trước mắt, câu trả lời vì thế vẫn là “không”.

Tuy nhiên, đằng sau những tuyên bố sắt đá của chủ nhân Điện Kremlin lại là một nền kinh tế Nga không mấy vững chắc. Lạm phát và thâm hụt ngân sách gia tăng, trong khi các khoản dự trữ của Quỹ Tài sản Quốc gia dần cạn kiệt. “Tới năm 2030, nền kinh tế Nga được dự báo sẽ chững lại đáng kể, phụ thuộc lớn vào Trung Quốc và bị hạn chế nghiêm trọng về tiềm năng hiện đại hóa”, theo một nghiên cứu đáng chú ý của Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (Ifri) về sự thay đổi cán cân quyền lực giữa Nga và Liên Hiệp Châu Âu.

Các lệnh trừng phạt của Mỹ nhằm vào các tập đoàn dầu mỏ Rosneft và Lukoil đã góp phần làm suy giảm nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô. Liệu khả năng chống chịu vĩ mô mà nước này từng tự hào kể từ khi chiến tranh nổ ra có đang dần biến mất hay không? Vẫn theo nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế Pháp, “năng lực thích ứng của Nga trước thực tế kinh tế đang thay đổi của chiến tranh hiện nay đã đạt tới giới hạn tối đa”. 

Tuy nhiên, những điểm yếu kinh tế của Nga hiện tại vẫn chưa buộc Điện Kremlin phải nhượng bộ bất kỳ điều gì. Tham vọng đế quốc của Putin cũng mở rộng tới các quốc gia thuộc khu vực ảnh hưởng cũ của Liên Xô và Nga Sa hoàng, nơi mà Matxcơva tuyên bố là theo lịch sử họ có quyền thống trị. Vladimir Putin đã nói: “Biên giới của Nga không dừng lại ở đâu cả.” Một chiến thắng tại Ukraina sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Matxcơva mở rộng sang các nước láng giềng.

Chiến tranh Ukraina, bàn đạp hoàn hảo cho dã tâm của Putin

Viện Nghiên cứu Chiến tranh (ISW) nhận định Điện Kremlin có lẽ đang tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình không có đảm bảo an ninh để chuẩn bị tiếp tục tấn công Ukraina trong tương lai, nhằm đạt được các mục tiêu kiểm soát toàn bộ nước láng giềng. Tổng thống Nga cũng nỗ lực làm suy yếu NATO và Liên Hiệp Châu Âu, vốn hiện được xem là kẻ thù chính của Nga, và đang tiến hành một cuộc chiến hỗn hợp ngày càng mạnh mẽ chống lại các tổ chức này. Cuối cùng, chiến tranh ở Ukraina cho phép Vladimir Putin thách thức phương Tây và thúc đẩy một trật tự thế giới mới thuận lợi hơn cho Matxcơva. Chiến tranh ở Ukraina trở thành bàn đạp cho tất cả những mục tiêu này.

Để duy trì vị thế trên chiến trường mà không phải chấp nhận “kế hoạch hòa bình” của Mỹ, Nga cũng có thể dựa vào sự im lặng của dân chúng, được duy trì nhờ việc trấn áp các tiếng nói bất đồng và chính sách trả lương hậu hĩnh cho các tân binh ra tiền tuyến. Như thường thấy trong lịch sử Nga, phúc lợi của người dân bị hy sinh để phục vụ tham vọng chính trị của Matxcơva. Tổng thống Nga, về lý thuyết có thể nắm quyền đến năm 2036, đồng thời có lợi thế về thời gian dài hạn và ý chí chính trị. Trong khi đó, châu Âu lại thiếu tất cả những gì cần thiết — mặc dù nếu đoàn kết, họ có đủ khả năng kinh tế và quân sự để đối trọng với Điện Kremlin — nhưng lại không muốn, hoặc chưa sẵn sàng, đối mặt với Vladimir Putin.

Một năm cầm quyền của Trump : Thất nghiệp và lạm phát đáng lo ngại  

Về tình hình nước Mỹ, nhật báo Le Monde và Les Echos hôm nay có bài viết về tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát đáng lo ngại trong một năm cầm quyền của tổng thống Donald Trump. Tỷ lệ thất nghiệp đã lên tới 4,6%, tức 7,8 triệu người, vào tháng 11, theo các số liệu do Cục Thống kê Lao động công bố. Đây là mức cao nhất kể từ tháng 09/2021, khi Hoa Kỳ vừa thoát khỏi đại dịch Covid-19. Cách đây một năm, vào thời điểm ông Trump tái đắc cử, tỷ lệ thất nghiệp và số người tìm việc lần lượt là 4,2% và 7,1 triệu. Đây là một tin xấu đối với đương kim tổng thống, mà mức độ tín nhiệm đang ở mức thấp nhất, theo Viện Gallup, với chỉ 36% ý kiến tích cực. 

Số  việc làm mới được tạo ra cũng không đáng kể, chỉ đạt 64.000 trong tháng 11. Sự sụt giảm này được lý giải bởi các biện pháp của bộ Hiệu quả Chính phủ (DOGE), khiến 160.000 việc làm trong các cơ quan liên bang bị cắt giảm. 

Về thu nhập, bức tranh cũng u ám không kém. Trong vòng một năm, tiền lương theo giờ trung bình tăng 3,5%, nhỉnh hơn đôi chút so với lạm phát (3% trong vòng một năm tính đến cuối tháng 9), nhưng đà tăng đã chậm lại vào tháng 11 (1,6% nếu tính theo nhịp độ hằng năm). Sau một năm hỗn loạn do chính sách thuế quan, các khoản cắt giảm liên bang và tình trạng shutdown, phe Dân chủ đã thành công trong việc biến chủ đề chi phí sinh hoạt đắt đỏ thành mũi tấn công chủ đạo nhắm vào Donald Trump. Chính chủ đề này đã giúp ứng viên xã hội Zohran Mamdani giành chiến thắng trong cuộc bầu cử thị trưởng New York vào tháng 11.

Nhà tài chính Michael Green kết luận rằng tại Mỹ giờ đây “chi phí nhà ở đã tăng vọt. Chi tiêu y tế đã trở thành khoản chi lớn nhất đối với nhiều gia đình. Việc trông giữ trẻ em đã trở thành một thị trường, và thị trường này thì đắt đỏ đến mức khủng khiếp. Giáo dục đại học đã đắt đến mức không thể chi trả.”

Nhiều điểm sáng trong bức tranh kinh tế Pháp năm 2025

Vẫn về kinh tế, nhật báo Công Giáo La Croix hôm nay có bài tổng kết cuối năm về tình hình kinh tế của Pháp. La Croix dẫn báo cáo của Viện Thống kê và Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (Insee), công bố hôm 17/12, cho biết Pháp dự kiến sẽ kết thúc năm với mức tăng trưởng 0,9%, trong khi nửa đầu năm 2026 nhiều khả năng sẽ tiếp tục đà này. Ngân hàng Trung ương Pháp cũng sẽ công bố vào sáng nay các dự báo cho năm tới, nhưng thống đốc François Villeroy de Galhau đã báo trước rằng cơ quan này sẽ “nâng lên một chút” các dự báo tăng trưởng được đưa ra hồi tháng 9 (+0,7% cho năm 2025, +0,9% cho năm 2026).

Pháp hưởng lợi chủ yếu từ xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng không và du lịch. Về mặt chính trị, sự thỏa hiệp mà thủ tướng Sébastien Lecornu tìm kiếm cũng đóng vai trò nhất định. “Việc tránh được một cuộc khủng hoảng thể chế giúp làm dịu đi sự bất định”, Insee nhận định. Ngay cả khả năng ban hành một đạo luật đặc biệt, duy trì các khoản chi ngân sách nhà nước ở mức của năm 2025 vào đầu năm 2026, cũng sẽ không tạo ra nhiều tác động. 

Các nhà bán lẻ đang lấy lại tinh thần, và tiêu dùng dường như bắt đầu tan băng đôi chút”, Insee cho biết thêm, đồng thời ghi nhận sự lạc quan tương đối của giới công nghiệp về mức cầu trong thời gian tới. Hệ quả là đầu tư đang phục hồi (+0,6% trong quý IV, sau mức +0,8% ở quý III) và được dự báo sẽ duy trì trong năm 2026. Tuy nhiên, Insee cũng thận trọng nhận định: “Sự cải thiện nhẹ về mặt chu kỳ kinh tế này hầu như không lan tỏa sang thị trường lao động. Các doanh nghiệp vẫn dè dặt trong các kế hoạch tuyển dụng”. Tỷ lệ thất nghiệp được dự báo sẽ tăng trở lại lên 7,8% vào giữa năm 2026. 

Cái giá của sự tự chủ

Tờ Les Echos hôm nay đặt câu hỏi : Nếu các quốc gia muốn không lệ thuộc vào các nước khác, họ cần sẵn sàng bỏ ra những gì ? Trong vài tháng gần đây, thế giới đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc không phụ thuộc vào một nguồn cung duy nhất đối với các sản phẩm nông nghiệp, năng lượng, nguyên liệu thô, linh kiện, vũ khí, và còn nhiều thứ khác nữa. Không ai, ít nhất là ở phương Tây, còn muốn phải chờ đợi sự đồng ý của Trung Quốc để có được các nam châm cần thiết cho ngành công nghiệp ô tô của mình. Không một nhà công nghiệp Trung Quốc nào còn muốn phụ thuộc vào các bộ vi xử lý đồ họa và các nền tảng tính toán do tập đoàn của Mỹ sản xuất. Không một doanh nghiệp Mỹ nào còn muốn phụ thuộc vào Trung Quốc về đất hiếm và các vật liệu mang tính chiến lược.

Không một quốc gia nào muốn phải phụ thuộc vào nước khác để nuôi sống dân mình. Nhiều quốc gia, vì những lý do khác nhau, cũng mong muốn giảm sự phụ thuộc vào lao động nước ngoài. Trên thực tế, nếu thiếu họ thì phần lớn các công việc thiết yếu, giúp cho bất kỳ xã hội nào vận hành, sẽ không được thực hiện. Cuối cùng, sự phụ thuộc tối hậu là việc chúng ta phụ thuộc vào những con người mà chúng ta để cho họ chết thay mình — trong lao động hoặc trong chiến đấu — mà không thực sự muốn nhìn thấy họ, chẳng hạn như những chiến binh Ukraina trong các chiến hào ở Donbass, hay những công nhân Duy Ngô Nhĩ trong các xưởng sản xuất của Shein.

Chúng ta sẵn sàng trả cái giá nào để thoát khỏi những sự phụ thuộc ấy? Trước hết, để có thể tự chủ, không phụ thuộc, các nước sẽ phải trải qua tình trạng lạm phát. Những nước này muốn xây dựng các hàng rào thuế quan, hay giảm bớt lao động nước ngoài trên lãnh thổ, hoặc từ bỏ việc mua các sản phẩm giá rẻ được sản xuất bởi những lao động nước ngoài bị bóc lột quá mức tại chính quốc gia của họ. Ngoài ra, các quốc gia cũng phải tiến hành những khoản đầu tư khổng lồ. Nhà nước sẽ phải can thiệp tích cực hơn thông qua các quy định nhằm khuyến khích tiêu dùng các sản phẩm nội địa, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân tự động hóa những hoạt động sản xuất, … 

Tiếp nữa, tự chủ là một sự ràng buộc về mặt địa chính trị. Nó buộc các nước phải đa dạng hóa các liên minh, nhân rộng các nguồn cung ứng, và cảnh giác với các đối thủ — kể cả trong số các đồng minh của mình. Để thực sự không phụ thuộc vào nước khác, vũ khí phải được sản xuất trong nước, hoặc ít nhất là bởi các đồng minh đáng tin cậy; không được phụ thuộc vào họ — hoặc ít nhất là không phụ thuộc vào một đối tác duy nhất — trong việc đổi mới trang bị, bảo đảm phụ tùng thay thế. 

Nếu hoạch định kém, việc theo đuổi chủ quyền sẽ dẫn đến suy thoái, lạm phát, bài ngoại, độc tài và chiến tranh, những xu hướng mà ta thấy nở rộ hiện nay tại Hoa Kỳ, châu Âu và châu Á. Nhưng nếu được suy nghĩ thấu đáo, khát vọng về sự tự chủ có thể là cơ hội để các quốc gia láng giềng xích lại gần nhau, cùng nhau hình dung một thế giới năng động hơn, công bằng hơn, sáng tạo hơn, bền vững hơn và hòa bình hơn.

Bình luận về bài viết này