Thiên tai và ‘quy trình’ không chừa chỗ cho dân (phần cuối)

Trân Văn

Theo Nguoi-viet

Chính quyền Việt Nam bắt đầu cấp các giấy phép xây dựng thủy điện vừa và nhỏ vào cuối thập niên 1990. Bất chấp những cảnh báo, rằng thủy điện vừa và nhỏ sẽ thu hẹp diện tích rừng tự nhiên, xáo trộn sinh hoạt, tước đoạt sinh kế của nhiều ngàn gia đình trong khu vực bị tác động bởi các dự án thủy điện, tạo thêm rủi ro khó lường cho khu vực hạ du, đe dọa sự ổn định của kinh tế – xã hội, xây dựng thủy điện vừa và nhỏ vẫn trở thành phong trào, phát triển rầm rộ từ Bắc vào Nam, đặc biệt là ở Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung. Mãi tới cuối thập niên 2010, phong trào này mới lắng xuống vì thực tế chứng minh những gì từng được cảnh báo đã trở thành nhãn tiền.

Hơn một tuần sau lũ, hàng trăm gia đình tại xã Hòa Xuân, tỉnh Đắk Lắk, nằm ven sông Bàn Thạch vẫn bị cô lập giữa biển nước. (Hình: Đình Văn/VnExpress)

Trong năm năm, từ 2009 đến 2013, khi tất cả các giới cùng nhận ra hậu quả của mưa, bão trở nên nghiêm trọng hơn vì sự góp phần của các hồ chứa nước ở những nhà máy thủy điện, thậm chí hậu quả của mưa, bão trở thành đặc biệt nghiêm trọng ở miền Trung vào các năm 2009, 2013, chính quyền Việt Nam mới tổ chức khảo sát, nghiên cứu, sau đó công bố những Quy trình vận hành liên hồ chứa nước cho nhiều lưu vực như sông Hồng, sông Sê San, sông Ba, sông Đồng Nai,… Tuy nhiên, biến đổi khí hậu và vô số hạn chế trong quản trị, điều hành không giảm trừ được hậu quả của mưa, bão nên các quy trình vừa kể liên tục được điều chỉnh.

Đợt mưa lũ hồi trung tuần tháng này không phải là lần đầu tiên Tây Nguyên và dải đồng bằng miền Trung tan hoang vì thời tiết cực đoan kèm với các hồ chứa nước của những nhà máy thủy điện xả nước, song dựa trên ý kiến của các viên chức từ xã đến tỉnh thì nguyên nhân chính nằm ở cung cách quản trị, điều hành. Nếu hoạt động quản trị, điều hành thật sự hữu hiệu, Chủ Tịch tỉnh Đắk Lắk sẽ không nghĩ tới việc kiến nghị Trung Ương xem lại Quy trình vận hành liên hồ chứa sông Ba thêm một lần nữa. Nếu hoạt động quản trị, điều hành từ thượng tầng đến hạ tầng hợp lý, các viên chức địa phương sẽ không thú nhận họ bất ngờ, bị động về lượng nước thủy điện xả ra.

Những chiếc quan tài được mạnh thường quân mang tới hỗ trợ người dân xã Hòa Thịnh, tỉnh Đắk Lắk, bị thiệt mạng do lũ. (Hình: Cao An Biên/Thanh Niên)

Vài năm gần đây, các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam liên tục đưa ra hàng loạt tuyên bố về “chuyển đổi số,” khẳng định đó là “nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội,” vì vậy “phải biến thách thức thành cơ hội, biến quyết tâm thành hành động.” Nếu lấy đợt “mưa lũ lịch sử” vừa xảy ra tại Tây Nguyên và khu vực duyên hải miền Trung làm ví dụ để kiểm chứng thật/hư hẳn sẽ thấy những tuyên bố kiểu đó là xảo ngữ!

Có nhiều triệu người Việt đã hoặc đang sống bên ngoài Việt Nam. Họ chính là nhân chứng để phối kiểm, xác nhận, quốc gia nào cũng có hệ thống cảnh báo qua điện thoại. Hệ thống đó thường xuyên gửi ra những tin nhắn lưu ý thời tiết sẽ bất thường (rất nóng, rất lạnh, sương mù dày, mưa lớn), dự báo giông tố, bão tuyết, sạt lở sắp xảy ra. Thậm chí, một số quốc gia như Nam Hàn còn cảnh báo đang cháy ở đâu và nên đổi hướng thế nào để tránh kẹt xe, hoặc ai bị lạc kèm đặc điểm nhận dạng nhằm hỗ trợ cảnh sát và thân nhân tìm kiếm,… Nếu thật tâm, thật sự đủ khả năng biến “chuyển đổi số thành giải pháp đột phá để phát triển nhanh và bền vững” như các viên chức hữu trách vẫn ti toe, nếu ứng dụng “chuyển đổi số” để phát cảnh báo như thiên hạ, chắc chắn hậu quả của đợt “mưa lũ lịch sử” vừa qua không thảm khốc tới như vậy.

Hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam sản xuất ra rất nhiều “quy trình,” kể cả “quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm nhân sự” nhưng những “quy trình” đó không tính đến dân, không chừa chỗ cho dân, thành ra mới xuất hiện bộ máy công quyền có thể gửi tin nhắn đến tất cả các số điện thoại, yêu cầu người sử dụng điện thoại bày tỏ sự tán thành với chủ trương này, chính sách kia, góp tiền ủng hộ chương trình nọ, song chẳng có tin nào nhắn rằng các nhà máy thủy điện sẽ đồng loạt xả cả ngàn khối nước mỗi giây, thậm chí cả chục ngàn khối nước mỗi giây và người dân chỉ còn lựa chọn duy nhất là leo lên mái nhà, bám vào cột điện với hy vọng sẽ thoát chết!

Bởi các loại “quy trình” không tính đến dân, không chừa chỗ cho dân nên khi dân tường trình về diễn biến, bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, bộ máy công quyền mới dồn tâm lực, sức lực vào việc truy tìm, xử lý và loan báo rộng rãi nhằm răn đe. Không phải tự nhiên mà trên mạng xã hội có những Facebooker như Hong Thai Hoang đề nghị Bộ Công an trả lời công chúng, trong bối cảnh như đã biết, khi nạn dân hoảng loạn, thiếu thông tin, đưa thông tin “không chính xác” thì dựa vào đâu để xác định hành vi ấy là sai phạm để xử lý? Trong những ngày đầu tiên sau thảm nạn, giới hữu trách chưa thể thu thập số liệu chính xác về thiệt hại thì tại sao vẫn kết luận dân chúng “đưa tin sai?”

Một bàn thờ tạm cho nạn nhân thiệt mạng trong đợt lũ được lập trong một căn nhà bỏ trống bị hư hại vì nước lũ, tại thôn Phú Hữu, tỉnh Đắk Lắk, vào ngày 24 Tháng Mười Một, năm 2025. (Hình: Thanh Hue/Getty Images)

Cũng bởi các loại “quy trình” không tính đến dân nên khi thảm họa xảy ra, chính quyền địa phương thiếu tất cả các loại phương tiện cần thiết để tổ chức cứu nạn ngay lập tức. Phương tiện cứu nạn, thực phẩm và nước uống cứu nạn trong những giờ, những ngày đầu tiên đến từ dân chúng. Không ít Facebooker bày tỏ cảm giác chua chát như ông Nguyễn Doãn Đôn: Ước gì lúc này là cuối tháng tư, có ngày 30 tháng 4 để trực thăng và hàng vạn lính cùng các loại xe cơ giới rầm rộ hành quân đến cứu nạn! Để đáp lại luồng dư luận như thế, bộ máy công quyền công bố thông tin, hình ảnh đã điều động trực thăng tham gia cứu trợ nhưng những người sử dụng mạng xã hội lại chỉ ra một điểm đáng chê trách khác – tại sao không dỡ vật phẩm cứu trợ từ các xe vận tải xếp thẳng lên trực thăng mà phải điều vài chục người, dàn thành hàng, chuyền từng thùng mì tới cửa trực thăng rồi quay phim, chụp ảnh giữa lúc “nước sôi lửa bỏng,” nạn dân đang kiệt sức vì đói, khát, lạnh lẽo?

Tương tự, nhiều người trầm trồ, nghiêng mình bày tỏ sự cảm phục ông Phan Ngọc Mẫn, 46 tuổi, khi ông lái chiếc xe được thiết kế như một trạm sạc di động từ TP.HCM ra Khánh Hòa tham gia cứu nạn và sáng kiến ấy đã giúp rất nhiều người có thể mở điện thoại, nối lại liên lạc với thân nhân.

Ở xứ sở thiên tai xảy ra hàng năm, liên lạc trong và sau thảm họa là vấn đề có tính sống còn, hãy đặt chiếc xe – trạm sạc di động – của ông Mẫn bên cạnh những phương tiện hiện đại mà công an nhân dân thường bày ra để khoe khả năng trấn áp nội loạn, trong đó có không ít “công xa” đồ sộ trang bị phương tiện phá sóng, tự nhiên sẽ tìm được thêm một ý trả lời cho câu hỏi, “quy trình” có từng tính đến dân, có chừa chỗ nào cho dân hay không?

***

Trên mạng xã hội, Johnny Trí Nguyễn bày tỏ sự trăn trở về “thờ ơ,” đại ý: Từ khi tôi trở về nước tới nay, đã hơn 20 năm, nhưng không năm nào không nghe bà con kêu gọi cứu trợ miền Trung. Năm nào cũng lũ, năm nào cũng ngập, năm nào cũng cảnh nhà cửa bị nước cuốn trôi và cả nước lại gom tiền, gom mì gói để cứu trợ nhưng năm nay thật sự quá kinh khủng! Có lẽ đã tới lúc chúng ta cần nói thẳng với nhau, nếu một chuyện cứ hoài lặp lại và mình vẫn tiếp tục xử lý y như cũ… thì đó không phải là lòng tốt nữa mà là sự thờ ơ tập thể. Cứu trợ là cần nhưng cứu trợ không giải quyết được gốc rễ. Miền Trung cần chúng ta thay đổi cách đối xử.

Johnny Trí Nguyễn bày tỏ hy vọng: Nhiều chuyên gia đã chia sẻ nhưng thêm một giọng nói, thêm một người hưởng ứng là thêm một cơ hội để mọi thứ được nhìn lại. Miền Trung như đã thấy là do mất rừng không giữ được nước, cứ mưa là nước tràn thẳng xuống hạ du. Thủy điện nhỏ dày đặc. Quy hoạch thờ ơ – nhiều khu dân cư xây ngay trên vùng trũng cổ, nơi tổ tiên chưa bao giờ dám dựng nhà, sông bị bóp lại, kênh bị lấp, đồi bị xẻ và bê tông hóa làm nước không còn đường thoát. Địa khí miền Trung vốn mong manh – dải đất hẹp, dựa núi, đối biển, khi phá rừng, đổi dòng chảy… vùng đất này phản ứng mạnh như bị kích vào vết thương chưa được chữa lành… Miền Trung xứng đáng được nâng niu bằng khoa học và trí tuệ. Không chỉ bằng sự thương xót và những thùng mì gói năm này qua năm khác.

Huỳnh Công Hải – cư dân Phú Yên – cũng bày tỏ mong muốn gần như thế: Điều chúng tôi cần là sự thừa nhận rất con người. Có những mất mát không đáng phải xảy ra. Có những tổn thương hoàn toàn có thể giảm nhẹ nếu cảnh báo sớm hơn, nếu vận hành tốt hơn, nếu phối hợp không lệch nhịp. Người Phú Yên chỉ mong một điều, rất nhỏ, rất thật, đừng để những tang thương này lặp lại thêm một lần nào nữa! Làm sao để được như thế trong khi lẽ ra phải thế? Ông Xuân Sơn Võ đề cập đến tính NGƯỜI: Khi đưa ra các quyết định, người ta có cả ngàn, cả vạn lý do, cả trăm thứ triết lý, học thuyết, chủ nghĩa, quy luật… chỉ có một cái không được chú trọng, đó là tính NGƯỜI, dẫn đến các quyết định thiếu tính NGƯỜI. Khi những thứ cao cả kia có tính NGƯỜI thì người dân phải được coi là NGƯỜI. Khi đã có tính NGƯỜI và người dân được coi là NGƯỜI, xã hội sẽ có tính NGƯỜI, mới thực sự là xã hội của loài NGƯỜI. (k.n)

_____

Bài liên quan:

Phần 1, Phần 2, Phần 3

Bình luận về bài viết này