Thái Hóa Lộc
Theo VNTB

Thứ trưởng Hùng Cao là biểu tượng đẹp của một thế hệ Việt Nam lưu vong vươn lên bằng trí tuệ và phẩm giá. Ông không cần chứng minh điều gì, sự hiện diện của ông tại Hà Nội ngày 2 tháng 11 năm 2025 đã là lời đáp mạnh mẽ nhất cho lịch sử.
Thứ trưởng Hải Quân Hùng Cao, một người Việt tỵ nạn Cộng sản đã cùng với Bộ trưởng Chiến tranh Pete Hegseth Hoa Kỳ có chuyến thăm chính thức kéo dài hai ngày tới Việt Nam, diễn ra từ ngày 2 đến 3 tháng 11 năm 2025. Chuyến đi này gây nhiều tranh cãi từ khách quan đến chủ quan…
Năm mươi năm trước, cha mẹ Thứ trưởng Hùng Cao cùng hàng triệu người Việt liều mình vượt biên, vượt biển để đào thoát khỏi chế độ cộng sản tàn bạo. Họ ra đi với niềm tin giản dị rằng: “Còn cộng sản thì không còn ngày trở về”. Năm mươi năm sau, con trai của những người tị nạn ấy tới Việt Nam nhưng không phải với tư cách người xin phép, mà là Tư lệnh phó Hải quân của Hoa Kỳ, ngồi ngang hàng với đại diện của nhà cầm quyền cộng sản từng khiến gia đình anh phải lưu vong.
Một chuyến đi thật kỳ lạ của lịch sử: người bị gọi là “phản động” lại đại diện cho một cường quốc hải quân hùng mạnh nhất thế giới, còn kẻ từng xưng “giải phóng dân tộc” thì phải mỉm cười đón tiếp trong nghẹn ngào cả giận dữ như trường hợp Thượng tướng Nguyễn Trường Thắng. Chúng ta cũng được biết những người trong phái đoàn Hoa Kỳ phải được phía chính quyền CSVN chấp nhận và sự hiện diện của Thứ trưởng Hải quân đã được biết trước. Nhưng tại sao thái độ của Thượng tướng Nguyễn Trường Thắng không thân thiện lại giận dữ bất thiện cảm? Bởi vì, “Những người từng bị đuổi khỏi quê hương nay lại tới trong tư thế danh dự, còn những kẻ từng nhân danh chính nghĩa thì sợ hãi ngay trong quyền lực của mình.”
Thứ trưởng Hùng Cao là biểu tượng đẹp của một thế hệ Việt Nam lưu vong vươn lên bằng trí tuệ và phẩm giá. Ông không cần chứng minh điều gì, sự hiện diện của ông tại Hà Nội ngày 2 tháng 11 năm 2025 đã là lời đáp mạnh mẽ nhất cho lịch sử. Nguyên là cựu Đại tá Hải quân được Tổng thống Trump tin tưởng đề cử, chọn làm Thứ trưởng Bộ Hải quân Hoa Kỳ, một chức vụ dân sự cấp cao thứ hai trong Bộ Hải quân, chịu trách nhiệm quản lý chung cho Hải quân và Thủy quân Lục chiến, bao gồm các vấn đề về nhân sự, ngân sách, cơ sở vật chất và chương trình quốc phòng. Ông đồng hành trong chuyến thăm Việt Nam cùng Bộ trưởng Chiến tranh cho thấy ông là thành viên quan trọng trong phái đoàn liên ngành nhằm thảo luận các vấn đề chiến lược và hợp tác song phương. Vai trò chính của ông là bảo đảm các cam kết hợp tác quốc phòng và an ninh với Việt Nam được thực hiện, qua đó củng cố sự hiện diện và lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ông tham gia vào việc thúc đẩy hợp tác an ninh và quốc phòng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải. Việc này diễn ra trong bối cảnh hai nước đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện…
Trong lúc đó, những người Việt tỵ nạn không cùng quan điểm đã có cái nhìn phiến diện về vai trò của Thứ trưởng Hải quân Hùng Cao thay vì nhiệm vụ được chính phủ Hoa Kỳ giao phó lại đặt để như một sứ mạng như một “chiến sĩ Quốc Gia”. Tất cả hai phía đều có một phiên bản sai lầm về chuyến đi thật sự của Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ Hùng Cao. Từ đó, chúng ta thấy dân tộc khó lòng nào trưởng thành và tiến về phía trước nếu cứ ngày ngày chấp nhặt và thù hằn quá khứ một cách trẻ con.
Cùng chịu chung số phận với những đồng bào ra đi trong cơn tao loạn lịch sử năm 1975, Hùng Cao – vốn từng mang thân phận của một người tị nạn – giờ đây đã có thể về lại quê hương trong một cương vị vẻ vang hoàn toàn khác.
Ấy vậy mà, vị thứ trưởng gốc Việt vẫn phải chịu bao lời miệt thị từ chính quê hương mình, và ngay cả người cùng hoàn cảnh tỵ nạn dù là trong bối cảnh của một chuyến thăm ngoại giao cấp nhà nước, chứ chẳng phải một chuyến đi với tư cách cá nhân có thể bị nghi ngờ về dụng ý. Đáng lẽ ra, khi một đồng bào gây tiếng vang trên xứ người, được trọng dụng nơi cường quốc, ta phải chúc mừng. Nhưng trái lại, không ít người Việt Nam đã có những phản ứng đi từ khiêu khích, đến hạ bệ, phủ nhận.
Phải chăng, chính cái gốc gác Việt Nam Cộng hòa của đại tá Hùng Cao hay được TT Trump nâng đỡ là căn nguyên đưa đến những ứng xử như trên của người Việt khác chiều? Phải chăng, cho đến bây giờ “bóng ma” của một chính thể đã quá vãng từ nửa thế kỷ trước vẫn là con dao chia đôi dân tộc, vẫn gây ám ảnh khôn nguôi? Để rồi, lằn ranh hay vết cứa ấy, không chừa bất cứ một thân phận nào, dù danh vọng vẻ vang hay trí thức đáng kính, đều bị người ta miễn cưỡng gán cho tội danh phản quốc, cho những ngôn từ dè bỉu. Con đường hòa giải dân tộc, có vẻ vẫn còn rất xa, vẫn còn ngáng chân vô vàn hòn đá tảng…
Mỗi khi nghe đến một điều gì đó không tốt đẹp gán cho chế độ cộng sản, sẽ có một lực lượng không nhỏ oằn mình phản kháng và cho rằng đó là luận điệu của “thế lực thù địch”. Nhưng không, “kiêu ngạo cộng sản” không phải do người viết đặt ra để bôi nhọ ai. Trái lại, cụm từ đó được chính một cán bộ trung kiên với chế độ sử dụng để nói về đảng mình, sau khi tự ý thức rõ về hiện trạng của nước nhà dưới sự lãnh đạo của đảng, và thấy rõ trách nhiệm của đảng trong việc điều hành đất nước sau ngày thống nhất.
Nhiều người đã ngỡ rằng căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản” và “chống cộng mù quáng” đó sẽ một lòng buông tha dân tộc khi bị đói nghèo vắt kiệt sau cái gọi là chiến thắng mùa xuân năm 1975. Nào ngờ, nó di căn một cách mãnh liệt vào các thế hệ sau trong vô vàn biểu hiện khác nhau.
Có được bước… phát triển của căn bệnh trầm kha ấy, không thể không kể đến công ơn của một bộ máy chính quyền đã không tiếc sức để ru ngủ dân tộc trong cơn hoan lạc reo mừng chiến thắng, cùng những bản luận tội sâu cay dành cho thế lực bại trận, và cả những lời tuyên truyền trên mây về thành tựu vẻ vang của cách mạng.
Căn bệnh ấy, triệu chứng đầu tiên và rõ ràng nhất đó chính là thái độ bề trên, chưa bao giờ dám công nhận thành tựu của đồng bào nơi xứ người, đặc biệt là những đồng bào thuộc về chính thể miền Nam trước năm 1975. Dẫu cho, từ lớp lớp dòng người di tản năm ấy, đã có biết bao cá nhân làm rạng danh dòng máu Việt nơi đất khách.
Sự thành công của cộng đồng người Việt hải ngoại đã vươn lên nơi xứ người. Nhưng, một bộ phận lớn ở trong nước, lại hiếm khi hạ bớt lòng kiêu ngạo của mình để thử một lần công nhận thành tựu của đồng bào. Những đồng bào để có thể vươn lên trên đất khách, đã không hề bỏ ra những nỗ lực bình thường, mà là khát vọng và nghị lực tìm lại cho mình một chỗ đứng, một danh dự sau khi bị lịch sử bỏ quên, phủ nhận đến cay đắng. Giá như, những người múa phím khua môi thốt ra không biết bao nhiêu lời cay nghiệt để phủ nhận thành tựu của đồng bào xa xứ có thể nhận ra rằng, ngày nay họ có thể bình an và thuận lợi nảy sinh lòng kiêu ngạo là nhờ vào những đóng góp thầm lặng nhưng to lớn của những con người mà chính họ đang dè bỉu. Giá như, những cá nhân “thượng đẳng” ấy chịu thấy rõ, thứ mà họ dùng để lên mặt với người khác chẳng qua là danh phận của “bên thắng cuộc” trong một trận chiến đã xưa hơn nửa thế kỷ, và rằng hãy thử nhìn lại mình, thứ họ để lại cho dân tộc Việt này chả phải là một dáng đứng kiêu hãnh trên quốc tế mà là hình ảnh của một nước Việt với không gian mạng ngập tràn những lời lẽ kém văn hóa.
Quả thật, như lời thơ Tản Đà:
“Dân hai nhăm triệu, ai người lớn
Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con.”
(Tản Đà, Mậu Thìn xuân cảm, 1932)
Gần một thế kỷ đã trôi qua, nhận xét của cụ Tản vẫn chưa nguôi tính “thời sự”.
Tựa như cụm từ “tay sai” mà “chính sử” vẫn dùng cho chính quyền Sài Gòn cũ, giờ đây đã trở thành một ám ảnh lịch sử với dư luận viên cộng sản. Những danh từ, khái niệm ấy vô hình trung đã tạo nên tâm lý nhìn gà hóa cuốc mỗi khi anh em “lực lượng” trông thấy người Việt hải ngoại thành đạt trong hàng ngũ quân sự, ngoại giao, hay chính trị của Mỹ, và mặc định quy chụp người ta là “tay sai đế quốc”. Sâu xa, nó phản ánh tâm lý nhận thức của một hệ tư tưởng xem lòng trung thành không gắn với giá trị đóng góp, mà đi liền với phe phái, lập trường.
Lối tư duy ấy của hệ thống chính trị độc đảng hiện tại đã ăn sâu vào nhận thức của đại bộ phận nhân dân, biến khái niệm “trung thành” mang nghĩa chỉ sự phục tùng tuyệt đối đối với đảng cầm quyền. Nhiều người vì thế, có lẽ sẽ thấy lạ và khó hiểu khi trong các mô hình dân chủ hiến định, quân đội và công chức chỉ tuyên thệ trung thành với Hiến pháp, không phải với bất kỳ cá nhân, tổ chức hay đảng phái nào.
Nhiều ý kiến từ những người chống TT Trump đã chỉ trích Hùng Cao là tay sai của Tổng thống Mỹ, nhưng họ không kịp hiểu ông là một viên chức dân sự phục vụ nhà nước Hoa Kỳ, được bổ nhiệm theo cơ chế hiến định và chịu trách nhiệm trước thể chế, không phải trước một lãnh tụ hay đảng phái cụ thể. Việc ông thực thi nhiệm vụ dưới bất kỳ tổng thống nào là biểu hiện của nguyên tắc nền tảng trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ: công quyền phục vụ quốc gia, không phục tùng cá nhân. Nói tóm lại, chúng ta nên tôn vinh Đại tá Hùng Cao, Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ là người Việt Quốc Gia tỵ nạn đã đạt được Giấc Mơ Mỹ!