Khi đất hiếm và thuế quan trở thành công cụ chính trị

Trung Điền

Theo CTMM

Đất hiếm vs thuế quan. Ảnh: FT

Đằng sau những lời đe dọa sẽ đánh “thuế 100%” của Tổng thống Trump hay “hạn chế xuất khẩu đất hiếm” của ông Tập nêu ra trong vài ngày qua, thế giới đã quen dần với phong cách chính trị của hai siêu cường. Hai động thái tưởng như phản công nhau, thực ra bổ sung cho nhau trong một vở kịch quen thuộc: Bắc Kinh tỏ ra mạnh mẽ để không mất mặt, Washington tỏ ra cứng rắn để bảo vệ hình ảnh “nước Mỹ không bị bắt nạt.”

Tổng Thống Trump hiểu rõ rằng những lời hăm dọa ồn ào có tác dụng gấp đôi: Kích thích cử tri MAGA tin ông là người duy nhất dám “đối đầu Trung Quốc.” Còn Tập Cận Bình, vốn đối diện với tăng trưởng chậm, thất nghiệp trẻ kỷ lục và sự bất mãn ngầm trong xã hội, cũng cần một “kẻ thù bên ngoài” để khơi dậy tinh thần dân tộc và che đi các vết nứt kinh tế.

Trung Quốc kiểm soát hơn 90% chuỗi cung ứng đất hiếm – một lợi thế chiến lược mà Bắc Kinh từng tin là “át chủ bài” trong bàn cờ toàn cầu. Tuy nhiên, sức mạnh này đang suy giảm nhanh chóng.

Khi Bắc Kinh hạn chế xuất khẩu đất hiếm và công nghệ tinh luyện, điều họ thật sự sợ không phải là mất doanh thu ngắn hạn, mà là đánh mất vị thế độc quyền trong dài hạn. Bởi Mỹ, châu Âu, Nhật và Úc đều đã bắt đầu “tự cường khoáng sản” – mở lại các mỏ cũ, đầu tư công nghệ tái chế, và ký kết liên minh cung ứng phi Trung Quốc. Điều nghịch lý là: Càng đe dọa, Trung Quốc càng thúc đẩy thế giới rời xa mình nhanh hơn.

Ở Washington, Bộ Năng lượng đã tái khởi động dự án khai thác mỏ Mountain Pass; Úc đã đầu tư hàng tỷ Mỹ Kim cho Lynas; Liên Minh Châu Âu thông qua “Critical Raw Materials Act” nhằm đảm bảo nguồn cung chiến lược đến 2030. Ngay cả Ấn Độ và Việt Nam cũng đang nổi lên như những đối tác tiềm năng trong mạng lưới “phi Trung Quốc hóa” chuỗi cung ứng.

Các kỹ sư công nghiệp hiểu rằng khai thác đất hiếm không khó – chỉ bẩn, tốn chi phí và cần thời gian hoàn vốn. Một khi Mỹ và các nước sẵn sàng chịu giá đắt và xử lý ô nhiễm nội địa, lợi thế độc quyền của Trung Quốc sẽ tan biến. Tập Cận Bình hiểu rõ điều đó, nên việc “hạn chế xuất khẩu” đất hiếm thực ra là đòn hù dọa để kéo dài thời gian, nhằm làm chậm tiến trình tự cung ứng của phương Tây.

Ông Tập không chỉ chơi trò kinh tế mà còn cả tâm lý chiến. Họ Tập biết rõ điểm yếu của ông Trump là đang bị những áp lực từ các công ty sản xuất công nghệ cao – nơi phụ thuộc vào đất hiếm và vật liệu từ Trung Quốc. Một khi chuỗi cung ứng này bị đứt, các nhà máy chip và xe điện Mỹ sẽ chịu cú sốc dây chuyền, gây thiệt hại cho chính cử tri ủng hộ Trump ở vùng công nghiệp.

Bởi vậy, họ Tập “ra đòn” không hẳn để đánh, mà để . Ông muốn khiến Tổng thống Trump lưỡng lự giữa hai lựa chọn: Hoặc leo thang thật, chấp nhận rủi ro suy thoái; hoặc lùi một bước, đàm phán để đạt “thỏa thuận thắng lợi” cho cả hai bên. Họ Tập tin rằng ông Trump, một người làm thương mại, sẽ chọn cách thứ hai.

Thế nhưng, bản thân Tập cũng sợ “đòn thật.” Trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc trì trệ, thị trường bất động sản sụp đổ và xuất khẩu giảm, một lệnh áp thuế 100% của Trump có thể giáng đòn chí mạng lên sản xuất Trung Quốc – đặc biệt là các ngành lắp ráp giá trị thấp vốn đang di dời sang Việt Nam, Ấn Độ và Mexico.

Nói cách khác, hai bên cùng hù nhau nhưng đều biết mình không đủ sức chịu đòn. Đặc biệt là đối với bên trong Trung Quốc, cuộc chiến thương mại được tuyên truyền như “trận chiến bảo vệ danh dự dân tộc.” Các kênh truyền thông nhà nước mô tả Tập như nhà lãnh đạo dám “thách thức bá quyền Mỹ,” người đang bảo vệ “chuỗi cung ứng xanh” khỏi sự phá hoại của phương Tây.

Nhưng thực tế phũ phàng: Tăng trưởng GDP chỉ quanh 4%, thanh niên thất nghiệp cao kỷ lục, đầu tư nước ngoài rút chạy, bất động sản mất giá, và đồng nhân dân tệ mất niềm tin. Trong hoàn cảnh đó, việc Tập dựng lên hình ảnh “đối đầu Mỹ” là một liều doping tinh thần cho người dân. Nó làm họ quên tạm thời sự trì trệ của thị trường, và tin rằng những khó khăn hiện nay chỉ là “đánh đổi vì vinh quang quốc gia.”

Tập hiểu tâm lý quần chúng: Một dân tộc bị thương sẽ dễ đoàn kết hơn khi có “kẻ thù bên ngoài.” Vì thế, đất hiếm, thuế quan hay chip bán dẫn – tất cả trở thành công cụ chính trị nội bộ. Ông Tập cần chứng minh rằng Bắc Kinh không yếu thế, rằng “đồng chí Tập” vẫn đang nắm gân nước Mỹ.

Song, đằng sau màn diễn oai hùng ấy là nỗi lo ngầm: Trung Quốc không còn công cụ nào khác để vực dậy kinh tế ngoài việc hù dọa và diễn vai nạn nhân. Việc chơi “con bài đất hiếm” chẳng khác nào đốt luôn vốn liếng chiến lược cuối cùng – vì một khi thế giới thích nghi, Bắc Kinh sẽ mất luôn cây gậy từng khiến họ tự tin suốt thập kỷ qua.

Ông Trump cần một đối thủ như Tập để tiếp tục củng cố chiến lược “America First” trước công luận. Còn họ Tập thì cần một “kẻ thù” để che giấu vết nứt kinh tế vốn đe dọa sự tồn vong của chế độ độc tài. Trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau về công nghệ, năng lượng và chuỗi cung ứng, không ai có thể thắng trong một cuộc chiến thương mại toàn diện. Người thua thật sự chính là các doanh nghiệp, người tiêu dùng, và nền kinh tế toàn cầu đang phải trả giá cho những bất ổn chính trị được bọc trong ngôn ngữ của “an ninh quốc gia.”

Bình luận về bài viết này