Trích bản án Phúc thẩm đối với tám lãnh đạo “Phong trào Thống nhất Dân tộc và Xây dựng Dân chủ”

Theo Tiengdan

Lời Giới Thiệu: Sau khi đăng loạt bài “Chuyện bây giờ mới kể: Nỗ lực hòa giải bất thành với những người cộng sản hơn 30 năm trước” của GS Stephen B. Young, chúng tôi nhận được tài liệu về bản án phúc thẩm đối với tám lãnh đạo “Phong trào Thống nhất Dân tộc và Xây dựng Dân chủ” bị đưa ra xử. Kính mời quý vị đọc bài trích đăng từ bản án phúc thẩm của vụ án này, để hiểu thêm những cáo buộc từ phía chính quyền CSVN thời đó:

Ảnh chụp màn hình từ báo An ninh Thủ đô: GS Nguyễn Đình Huy và các lãnh đạo của phong trào tại một phiên tòa năm 1995.

***

Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc

oOo

Tòa án Nhân dân Tối cao

Tòa Phúc Thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh

Án số: 1469 / HSPT ngày 27/10/1995

Thụ lý số: 1275 / HSPT ngày 05/9/1995

Vụ: Nguyễn Đình Huy và đồng bọn “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền nhân dân”

Số: 2665 / VP – PT

Nhân Danh Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Tòa Phúc Thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Với hội đồng xét xử gồm có:

– Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Xuân Phát, Thẩm phán TANDTC.

– Các thẩm phán: Ông Trần Đức Trung, Thẩm phán TANDTC; Ông Châu Minh Đức, Thẩm phán TANDTC

– Với sự tham dự của đại diện VKSXXPT: Ông Hạ Bá Hợp, Kiểm sát viên cao cấp, VKSNDTC.

– Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Thanh Loan.

Hôm nay, ngày 27 tháng 10 năm 1995 tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm về hình sự, đối với các bị cáo:

. . . . .

Tòa Phúc Thẩm Tòa Nhân Dân Tối cao tại TP. Hồ Chí Minh

Nhận xét vụ án

Năm 1989 Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chánh sách đổi mới, đồng thời có những biến cố chính trị diễn ra tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô. Bọn phản động quốc tế, trong đó có các nhóm phản động người Việt di tản như cái gọi là: “Đảng Tân Đại Việt hải ngoại”, “Liên Minh Dân Chủ Việt Nam” do Nguyễn Ngọc Huy tập hợp, tăng cường hoạt động chống Cộng, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi Nguyễn Ngọc Huy chết, bọn phản động “Tân Đại Việt” và “Liên Minh Dân Chủ Việt Nam” tranh giành nhau vị trí lãnh đạo, nội bộ lục đục, tan rã thành nhiều phe phái. Vì vậy các phe nhóm chống đối nhau. Cao Minh Châu, một trong những tay chân thân cận của Nguyễn Ngọc Huy đã tập hợp được một số phần tử “Tân Đại Việt” cũ, tổ chức hoạt động hướng vào trong nước để tái thành lập “Đảng Tân Đại Việt”. Đầu tiên, Châu cử tên Nguyễn về nước vào trại cải tạo để đề cử Huy lên nắm giữ quyền lãnh đạo “Đảng Tân Đại Việt” thay cho Nguyễn Ngọc Huy đã chết ở nước ngoài. Huy đã nhất trí sẽ phục hồi “Đảng Tân Đại Việt ở trong nước” và giao cho Châu thay thế Nguyễn Ngọc Huy làm đại diện cho mình tại hải ngoại.

Để đạt được mục đích trên, ngay sau khi được trả tự do, Huy viết thư sang Hoa Kỳ cho Châu để xúc tiến việc thành lập tổ chức chính trị trong nước. Châu lại cử Nguyễn về Việt Nam báo tin cho Huy biết, ở nước ngoài thống nhất cử Huy lãnh đạo “Tân Đại Việt trong nước”, yêu cầu Huy xúc tiến hoạt động. Nhận được ý kiến của Châu, Huy bắt tay vào phục hồi Đảng Tân Đại Việt trong nước.

Ngày 16/7/1992, Nguyễn Đình Huy tiến hành họp cốt cán của Tân Đại Việt và Liên Minh Dân Chủ, trình bày việc Cao Minh Châu từ Hoa Kỳ cử Nguyễn về Việt Nam gặp Huy, yêu cầu phục hồi Đảng Tân Đại Việt, đặt tên cho tổ chức mới là “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ”. Nguyễn Đình Huy thành lập “Hội đồng chỉ đạo” của phong trào gồm 5 thành viên. Nguyễn Đình Huy làm Chủ tịch, Nguyễn Ngọc Tân và Phạm Tường làm Phó Chủ tịch, Nguyễn Văn Hữu và Đồng Tuy làm Uỷ viên.

Nguyễn Đình Huy và nhóm của y soạn thảo ra “Tuyên ngôn”, “Cương lĩnh chính trị” và nhiều tài liệu khác xác định tôn chỉ, mục đích và chủ trương của cái gọi là “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ”. Những tài liệu này xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc chánh sách đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam, xóa nhòa ranh giới giữa cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam với tội ác của bọn xâm lược và tay sai. Kích động, kêu gọi quần chúng “Đại phản tỉnh”, xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, hủy bỏ hiến pháp để xây dựng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, lật đổ Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thiết lập Nhà nước mới với cái tên mà bản dự thảo hiến pháp của chúng ghi: “Nước Việt Nam Cộng hòa”. Những tài liệu nầy đã gửi ra nước ngoài in ấn, đăng trên báo của các tổ chức phản động trong cộng đồng người Việt lưu vong.

Cái gọi là “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” của Nguyễn Đình Huy thực chất là một tổ chức phản động, lấy chiêu bài “Dân chủ” để lôi kéo, tập hợp lực lượng, dựa vào thế lực bên ngoài, làm hậu thuẫn để ra mắt phong trào, công khai hoạt động chống đối, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, giành quyền lãnh đạo, loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới giành chánh quyền bằng thủ đoạn lừa bịp chính trị. Nếu không đạt được kết quả thì Huy và “Hội đồng chỉ đạo” sẽ dùng bạo lực. Huy đã khai: “Nếu chánh quyền hiện nay không chịu rút lui thì sẽ có lực lượng chính trị khác, với “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” đứng ra dùng bạo lực để lật đổ Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.

Từ mục đích của cái gọi là “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” do Nguyễn Đình Huy cầm đầu, Huy đã cải tổ “Hội đồng chỉ đạo” thành “Hội đồng chỉ đạo lâm thời” gồm 7 thành viên như sau: 1/. Nguyễn Đình Huy làm Chủ tịch, 2/. Nguyễn Ngọc Tân làm Phó Chủ tịch, 3/. Phạm Tường làm Phó Chủ tịch, 4/. Bùi Kim Đính, Uỷ viên kiêm Tổng thư ký, 5/. Đồng Tuy, Uỷ viên, 6/. Nguyễn Văn Hữu, Uỷ viên, 7/. Hoàng Văn Khải, Uỷ viên.

Nguyễn Đình Huy và “Hội đồng chỉ đạo” của y đã gặp gỡ tuyên truyền, lôi kéo được nhiều người ở 15 tỉnh, thành phố. Những người bị tuyên truyền, lôi kéo là đảng viên Tân Đại Việt, Liên minh dân chủ, ngụy quân, ngụy quyền, trí thức… dưới chế độ cũ. Nhóm Huy chọn những thành viên tin cậy, hoạt động tích cực của phong trào để kết nạp vào đảng Tân Đại Việt. Đã kết nạp được nhiều đảng viên mới như: Nguyễn Chí Vi, Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Văn Châu, Đỗ Khanh, Phạm Duy Tuệ, Nguyễn Quốc Thụy…

Nguyễn Đình Huy và đồng bọn đã tiếp nhận, phổ biến, tổ chức thực hiện “kế hoạch nhiều bước” nhằm lật đổ chánh quyền từ nước ngoài gửi vào với phương án gồm 6 giai đoạn thực hiện từ năm 1991 đến năm 1997 là vận động quần chúng tham gia phong trào, từng bước đưa “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” trở thành một tổ chức chính trị đối lập cùng tồn tại với Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia chánh quyền từ cấp cơ sở đến Trung ương, tiến tới thay đổi hiến pháp, lật đổ Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thiết lập cái gọi là “Nhà nước Việt Nam Cộng hòa”.

Ở nước ngoài, Cao Minh Châu được Nguyễn Đình Huy uỷ nhiệm, đã thành lập và tổ chức lễ ra mắt các văn phòng đại diện “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” ở bốn nước như sau:

– Ngày 11/12/1992 ở Hoa Kỳ.

– Ngày 20/2/1993 ở Úc.

– Tháng 7/1993 ở Canada.

– Tháng 9/1993 ở Anh.

Lễ ra mắt có quay video, chụp hình gởi về Việt Nam cho Nguyễn Đình Huy và đồng bọn làm tài liệu tuyên truyền và phát triển tổ chức. Nguyễn Đình Huy tổ chức và giao cho tay chân viết sáng tác các thể loại, chính luận, bình phẩm, luận văn, truyện ký, thơ ca… rồi gửi bài sang Hoa Kỳ đăng trên báo Đông Á (của “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ”) và báo Tự do dân bản (của “Liên minh dân chủ Việt Nam”) cũng như phổ biến rộng rãi loại tài liệu mang tên “Luận kiếm Hoa Sơn” gồm hai tập của tác giả Dương Thái Sơn, với nội dung chủ đề khai thác sự kiện chánh quyền xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, với suy luận rồi tại Việt Nam cũng sụp đổ như vậy, lập luận phủ nhận học thuyết Mác-Lênin, phủ định thành quả cách mạng dân tộc dân chủ và thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xuyên tạc lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân ta thực hiện… giải thích, tuyên truyền đề cao chủ trương đường lối để thực hiện trong “tuyên ngôn” “cương lĩnh chính trị” của phong trào.

Ngoài ra, còn phổ biến rộng rãi bài báo (bằng tờ copy bản chính và bản dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Đình Huy) của tác giả Stephen B. Young đăng trên tờ Washington Post ngày 13/7/1993 mang tựa đề: Vietnam’s turn (Đến lượt Việt Nam) với nội dung lừa bịp xảo trá.

Để có kinh phí hoạt động, Nguyễn Đình Huy đã tiến hành theo hai hướng: ở trong nước nhóm Huy tạm ứng tiền, ở nước ngoài, Huy giao cho Cao Minh Châu vận động một số thành viên ủng hộ.

Khi phát hiện Nguyễn Đình Huy phục hồi nhóm phản động của đảng Tân Đại Việt cũ và hoạt động bất hợp pháp. Tháng 4/1993, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho cơ quan công an thành phố lần lượt triệu tập các đương sự chỉ cho thấy việc phục hồi đảng Tân Đại Việt và thành lập tổ chức này là vi phạm pháp luật, lập biên bản đình chỉ hoạt động. Nguyễn Đình Huy và nhóm của y không chấp hành mà còn báo cho Cao Minh Châu ở Hoa Kỳ biết để vận động báo, đài và các tổ chức phản động trong cộng đồng người Việt lưu vong ở nước ngoài phản đối nhà nước Việt Nam làm hậu thuẫn cho bọn Huy.

Đỉnh cao hoạt động của chúng là kế hoạch chuẩn bị cho lễ ra mắt của “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” ở Việt Nam. Cao Minh Châu đã cử một số tên, trong đó có Trần Quang Liêm, Nguyễn Tấn Trí manh theo tiền bạc, tài liệu, máy vi tính, máy in laser. . . về Việt Nam phối hợp với Nguyễn Đình Huy đã chuẩn bị nội dung, tài liệu, chương trình, danh sách khách mời trong nước và nước ngoài, thuê khách sạn làm địa điểm họp tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 27/11/1993. Nguyễn Đình Huy và nhóm phản động này dùng chiêu bài “làm cho dân giàu, nước mạnh” nên tổ chức cuộc “Hội thảo quốc tế về phát triển Việt Nam”. Nhưng thực chất đây là cuộc họp có nhiều người trong nước và nước ngoài để bọn Huy công bố việc ra mắt tổ chức phản động của y. Bài diễn văn do Nguyễn Đình Huy soạn thảo để đọc trong cuộc họp này có nội dung xuyên tạc cuộc kháng chiến oanh liệt chống xâm lược và tay sai của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giành thắng lợi, vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam “du nhập ý thức hệ ngoại lai vốn là tác nhân độc hại” làm cho đất nước trở thành bãi chiến trường, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, hận thù chồng chất và dân tâm ly tán, làm cho dân nghèo, nước yếu” nhằm đánh lộn sòng giữa những người yêu nước chống xâm lược, giải phóng dân tộc với bọn xâm lược và tay sai. Đây là thủ đoạn nhằm công khai hóa hoạt động của chúng, đánh lừa dư luận trong nước và nước ngoài, tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Tang vật gồm: Cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn, hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, diễn văn, lời kêu gọi “phản tỉnh”, điều lệ, sơ đồ tổ chức, cờ đảng Tân Đại Việt, cờ hiệu và mẫu các loại huy hiệu, con dấu của Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ, xe máy, máy đánh chữ, máy vi tính, máy in laser, máy quay caméra, dĩa cứng, dĩa mềm đã lưu giữ nhiều tài liệu của phong trào.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 1039/HSST ngày 12 tháng 8 năm 1995, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử các bị cáo về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền nhân dân”.

. . . . . . .

Tại phiên tòa phúc thẩm, hầu hết các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, và chỉ xin được pháp luật xem xét lại về tội danh cho các bị cáo. Riêng bị cáo Nguyễn Ngọc Tân kháng cáo không kêu oan, không xin giảm án mà chỉ yêu cầu xem xét về quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm. Hầu hết các bị cáo đều nại rằng: bọn chúng phục hồi “Đảng Tân Đại Việt” đã bị chánh quyền cách mạng xóa bỏ sau giải phóng năm 1975. Đồng thời lấy đảng “Tân Đại Việt” làm nòng cốt cho cái gọi là “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ”, kể cả lực lượng của phong trào được thành lập ở nước ngoài., chỉ nhằm đối thoại với “Đảng Cộng sản Việt Nam” nếu được chánh phủ Việt Nam cho phép, thực hiện chánh sách đa đảng trong thời kỳ đổi mới…

Nhưng, với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cùng với tang vật do cơ quan điều tra, khám xét, thu được tại nhà của các bị cáo như: Cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn, hiệu triệu, kế hoạch hành động, hiến pháp có tên “Việt Nam Cộng hòa”, cờ, điều lệ và quốc ca… Các tài liệu này đều phù hợp với lời khai nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm.

Như vậy, mục đích, động cơ của lực lượng cái gọi là “PTTNDT và XDDC” do Nguyễn Đình Huy và đồng bọn nặn ra ở trong nước và 4 tổ chức do Huy và đồng bọn dựng lên ở nước ngoài bao gồm ở Mỹ, ở Úc, ở Canada và ở Anh, đều là lực lượng phản động. Nhằm tiến tới mục đích là lật đổ, xóa bỏ nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và sẽ thay vào đó một nhà nước kiểu mới mà bọn chúng khẳng định rằng: “Một nhà nước do đảng Tân Đại Việt” đứng ra cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo.

Vì thế, lời nại của các bị cáo đều vô căn cứ, chỉ là thủ đoạn lừa bịp dư luận, nhằm trốn chạy tội lỗi trước nhân dân và pháp luật.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án các bị cáo Nguyễn Đình Huy, Phạm Tường, Nguyễn Ngọc Tân, Bùi Kim Đính, Đồng Tuy, Nguyễn Tấn Trí, Nguyễn Văn Biên và Nguyễn Văn Châu, phạm tội “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền nhân dân”, bị xét xử, theo qui định tại điều 73 bộ luật Hình sự, là có căn cứ đúng pháp luật.

Riêng các bị cáo Nguyễn Tấn Trí và Trần Quang Liêm, là người có quốc tịch “Hoa Kỳ” và đồng thời đang mang cả quốc tịch Việt Nam (vì bọn chúng không có đơn xin chính phủ Việt Nam xóa quốc tịch). Nhưng lại có hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, và bị cấp sơ thẩm đưa ra xét xử bình đảng như các bị cáo khác, là đúng với qui định tại khoản 2 điều 05 bộ luật hình sự.

Xét tính chất của vụ án, do hành vi phạm tội của các bị cáo, là đặc biệt nghiêm trọng, bởi vì:

Nguyễn Đình Huy và đồng bọn đều là những phần tử trước đây có nhiều nợ máu với nhân dân, với chánh quyền cách mạng.

Sau giải phóng năm 1975, bọn chúng được hưởng chính sách ân huệ, khoan hồng của Đảng và nhà nước, nên chỉ bị tập trung học tập cải tạo, được đặc xá tha về sum họp với gia đình và hòa nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhưng với bản chất ngoan cố, điên cuồng chống phá cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại Nhà nước.

Vì thế, vừa được trả tự do, bọn chúng đã nhanh chóng tìm cách móc nối, liên kết với nhau để cùng phạm tội.

Để đạt được ý đồ đen tối, bọn chúng lợi dụng thời cơ về “Tình hình biến cố của các nước XHCN ở Đông Âu”, chúng dự định thôn tính Đảng và nhà nước ta bằng bạo lực chính trị. Vì vậy mà chúng ngang nhiên kích động các tầng lớp trí thức cũ, các thành phần sĩ quan ngụy quyền, các tầng lớp đảng phái phản động cũ, để tuyên truyền, thuyết phục lôi kéo họ gia nhập lực lượng “PTTNDT và XDDC”, đòi đối thoại với Đảng Cộng sản Việt Nam, và láo xược đưa ra yêu sách Đảng phải chấp nhận cơ chế chính trị “đa nguyên đa đảng” mà bọn chúng mơ hồ đặt ra.

Fax ra nước ngoài nhiều bài viết cho báo Đông Á đăng tải, một tờ báo phản động của số người Việt lưu vong ở nước ngoài, với nội dung: đả kích, xuyên tạc, bôi xấu chế độ XHCN ở Việt Nam, hòng lừa bịp dư luận thế giới và những phần tử xấu vốn có hận thù với cách mạng.

Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Đình Huy, bọn chúng đã nhanh chóng lập ra tổ chức phản động lấy danh xưng gọi là “PTTNDT và XDDC”, phong trào này đã có đủ Cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn… với mục đích “xóa bỏ nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bằng 6 bước thực hiện, hạn chót đến năm 1997 bọn chúng sẽ thay vào đó, là một nhà nước phản động mà chúng gọi là nhà nước “dân chủ” kiểu Tổng Thống chuyên chế và đặt tên cho nước là “Việt Nam Cộng hòa”.

Chúng chuẩn bị tuyên ngôn, hiệu triệu, để kêu gọi phần tử xấu đứng lên lật đổ chánh quyền cách mạng, từ Trung ương đến xã, phường, lập ra quốc ca, cờ hiệu, hiến pháp cho cái gọi là nhà nước kiểu mới của chúng.

Xét quy mô của tổ chức, còn được Nguyễn Đình Huy và đồng bọn, xây dựng mở rộng ở 4 quốc gia khác.

Toàn bộ tài liệu phản động, được bọn chúng viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp đưa vào dĩa mềm, dĩa cứng, lưu trữ trong máy vi tính để chuyển ra nước ngoài cho đồng bọn.

Rồi bày ra trò quay phim video phỏng vấn, tâng bốc tiểu sử tội ác của Nguyễn Đình Huy và sự “phát triển” của phong trào ở trong nước. Nhằm làm tài liệu tuyên truyền trấn an đồng bọn hiện đang lưu vong ở nước ngoài.

Nghiêm trọng hơn, khi bị chánh quyền nhân dân phát hiện hành động trái pháp luật của bọn chúng, Công an thành phố Hồ Chí Minh đã gọi đến lập biên bản đình chỉ hoạt động.

Nhưng Huy và đồng bọn lại vu cáo chánh quyền Việt Nam hù dọa, đàn áp cái gọi là quyền “dân chủ, tự do” của chúng để đồng bọn ở nước ngoài xuyên tạc, hòng gây sức ép với chính phủ Việt Nam, để bọn chúng dễ bề thao túng hoạt động.

Nguyễn Đình Huy đã thú nhận: “Nếu chánh quyền hiện nay không chịu rút lui, thì sẽ có một lực lượng chính trị khác, với “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” đứng ra sử dụng bạo lực để lật đổ nhà nước Việt Nam.” (bút lục 74 tập 4 hồ sơ Nguyễn Đình Huy).

Với mục đích sẽ lật đổ chánh quyền của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nguyễn Đình Huy và đồng bọn ráo riết hoạt động, phát triển lôi kéo nhiều người tham gia vào tổ chức. Bọn chúng đã phân công nhau tiến hành xây dựng lực lượng ở các tỉnh Quảng Ngãi, Phan Thiết, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang và Vĩnh Long. Thành lập ra cái gọi là “Hội đồng chỉ đạo” do Nguyễn Đình Huy làm Chủ tịch, Nguyễn Ngọc tân, Phạm Tường làm Phó Chủ tịch, các Uỷ viên bao gồm: Bùi Kim Đính, Đồng Tuy, Nguyễn Văn Hữu và Hoàng Văn Khải.

Mở rộng lực lượng ra 4 quốc gia khác bao gồm ở Hoa Kỳ được thành lập vào ngày 11/12/1992 do Cao Minh Châu phụ trách. Ở Úc thành lập vào ngày 20/2/1993 do Trương Minh Hoàng phụ trách. Ở Canada vào tháng 5 năm 1993 và ở Anh tháng 7 năm 1993.

Huy và đồng bọn lập sơ đồ hình thành các ban bệ từ trung ương đến địa phương, nhằm đưa người tham gia ứng cử, cài cấy vào bộ máy chánh quyền nhà nước, chờ thời sẽ hành động lật đổ chánh quyền.

Rõ ràng hành vi phạm tội nêu trên của Nguyễn Đình Huy và đồng bọn đã xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, chà đạp lên thành quả cách mạng mà cả thế kỷ nay dân tộc ta hy sinh xương máu để giành lại “độc lập tự do” từ tay của các đế quốc xâm lược.

Xét các bị cáo đã phạm tội mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa đến sự an tòan của quốc gia, sự ổn định chính trị và công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân.

Xâm phạm nghiêm trọng đến các điều 3, điều 4, điều 13 và điều 99 của hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Do đó cần phải bị nghiêm trị để răn đe phòng ngừa chung.

Xét vai trò trách nhiệm hình sự của từng bị cáo như sau:

1.- Đối với Nguyễn Đình Huy:

Trước năm 1975 tham gia đảng Tân Đại Việt với chức vụ Phó Tổng bí thư. Sau thời gian học tập cải tạo dài hạn, được Đảng và nhà nước khoan hồng, nhưng y vẫn không từ bỏ ý đồ chống phá cách mạng. Ngay từ khi còn đang ở trong trại cải tạo, Cao Minh Châu, từ Mỹ cử tên Nguyễn về nước móc nối, y đã nhận lời ngay. Vừa ra trại, Huy đứng ra lôi kéo, bắt liên lạc, phục hồi Đảng Tân Đại Việt (cũ) đã bị chánh quyền xóa bỏ sau chiến thắng 30/4/1975.

Từ đảng Tân Đại Việt đổi thành “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ”, Huy trực tiếp điều hành sự hoạt động của tổ chức, soạn thảo tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị, thư chúc Tết gửi ra nước ngoài, dự thảo bài diễn văn khai mạc hội thảo và nhiều tài liệu phản động khác. Giao cho Bùi Chí Vi ra nước ngoài soạn thảo hiến pháp nước “Việt Nam Cộng hòa”, phân công cho Bùi Kim Đính viết bài vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gửi cho báo Đông Á ở nước ngoài đăng tải. Tích cực tuyên truyền lôi kéo nhiều người vào tổ chức. Y là kẻ trực tiếp cầm đầu, chỉ huy tổ chức trong nước và ở nước ngoài.

Với vai trò nêu trên, cộng nhân thân của bị cáo là kẻ suốt đời tận tụy với kẻ thù của dân tộc, chống lại nhân dân, chống lại cách mạng. Vì thế Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 điều 73 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 15 năm tù là đã thể hiện sự khoan hồng đúng mức của pháp luật.

2.- Phạm Tường:

Được Nguyễn Đình Huy giao giữ chức Phó chủ tịch qua cái gọi là “PTTNDT và XDDC”, y hoạt động rất tích cực, đã lôi kéo, tuyên truyền nhiều người vào tham gia tổ chức, trong đó giới thiệu được 3 người kết nạp vào đảng Tân Đại Việt như Bùi Kim Đính, Nguyễn Chí Vi (xuất cảnh ra nước ngoài) và Nguyễn Văn Biên. Được Huy giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng ở miền Trung, và thâm nhập lôi kéo người ở các tổ chức tôn giáo, gia nhập tổ chức.

Tham gia đóng góp dự thảo cương lĩnh chính trị và cùng đồng bọn ký tên gửi ra nước ngoài.

10 lần Fax các tài liệu phản động ra nước ngoài cho Cao Minh Châu, và một lần nhận Fax “chương trình kế hoạch dân chủ hóa Việt Nam” do Cao Minh Châu gửi về cho Nguyễn Đình Huy, trực tiếp thuê chỗ ở và hội trường chuẩn bị cho “Hội Thảo”, viết bài để đăng trên báo Đông Á với nội dung: xuyên tạc, vu cáo, đả kích chính sách của Đảng và nhà nước trên lãnh vực văn hóa giáo dục.

Có thể nói sau Nguyễn Đình Huy là Phạm Tường. Y hoạt động tỏ ra hăng hái, sử dụng điện thoại nhà riêng để liên lạc nhiều lần với bọn tay chân ở nước ngoài, nên được Huy tin dùng.

Bỏ tiền, vàng ứng cho tổ chức để có kinh phí hoạt động gồm 51 chỉ vàng 24 kara và 10 triệu đồng tiền Việt Nam cùng với 2010 USD (đô la Mỹ).

Trong khi bị công an gọi đến giáo dục, yêu cầu đình chỉ hoạt động, nhưng y bất chấp, tiếp tục viết bài ghi hình video gửi ra nước ngoài cho đồng bọn, khẳng định “sẽ tiếp tục hoạt động cho phong trào.”

Do vậy bị Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 điều 73 Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo 14 năm tù là thỏa đáng.

3.- Bùi Kim Đính:

Trước 1975 với cấp bậc đại uý trong quân đội ngụy, từng là sĩ quan chính trị, tiểu khu Bình Định có bề dầy tuyên truyền chống cộng sản. Sau học tập cải tạo, được tha về nhưng với bản chất chống đối cách mạng, nên được Huy đưa vào tổ chức, y sớm trở thành “Uỷ viên Hội đồng chỉ đạo PTTNDT và XDDC” kiêm Tổng thư ký. Quá trình hoạt động, Đính tham gia rất tích cực như may cờ, sửa chữa điều lệ, lập sơ đồ tổ chức, làm biểu tượng để in bìa điều lệ của đảng Tân Đại Việt, làm mẫu cờ cho phong trào, được Huy giao viết lời tuyên thệ. Và cất giữ nhiều tài liệu phản động quan trọng, sáng tác thơ ca, viết bài có nội dung ca ngợi, khích lệ cho phong trào, bôi xấu chế độ xã hội chủ nghĩa, đả kích quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng và chính phủ Việt Nam trên mọi lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội.

Các bài vở trên được gởi sang Mỹ để tờ báo Đông Á, là tờ báo phản động của bọn phản động di tản vào tháng 4 năm 1975 đăng tải. Ngoài ra Đính còn được Huy giao duyệt các bài viết của các đối tượng khác trước khi gửi ra nước ngoài.

Do hoạt động của Đính tích cực và nội dung bài viết có tác dụng tuyên truyền bôi xấu chính phủ Việt Nam, nên được tay chân ở nước ngoài gửi cho 100 USD.

Nguyễn Tấn Trí còn hứa trợ cấp cho Đính mỗi tháng 50 USD để Đính viết bài tuyên truyền cho tổ chức.

Đính còn được Huy giao nhiệm vụ tuyên truyền lôi kéo số văn nghệ sĩ trí thức cũ vào tổ chức, để hợp lực chống lại Đảng và nhà nước.

Đính đã lôi kéo và giới thiệu Nguyễn Văn Châu vào tổ chức và được kết nạp vào đảng Tân Đại Việt.

Rõ ràng hành vi phạm tội của Đính thể hiện với vai trò đắc lực và tích cực, đồng thời cũng là kẻ có vai trò vừa tổ chức, xúi giục.

Chính vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 điều 73 của Bộ luật hình sự để xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là thỏa đáng.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm có xét đến thái độ biết ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn, giúp cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án, nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm h khoản1 điều 38 BLHS, để tuyên phạt y, mức án khởi điểm của khung hình phạt do điều luật qui định, cũng là thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Nay không có căn cứ nào khác để xét giảm thêm mức án cho bị cáo.

4.- Với Nguyễn Ngọc Tân

Trước 1975 đã từng là “Dân biểu” chế độ chánh quyền ngụy Sài gòn. Và là người cùng với Nguyễn Ngọc Huy (đã chết ở Mỹ), sáng lập ra Đảng Tân Đại Việt. Năm 1975 bị tập trung học tập cải tạo, sau khi được tha về, ngay lập tức cùng với Nguyễn Đình Huy, phục hồi lại đảng “Tân Đại Việt” làm nòng cốt cho tổ chức. Y là 1 trong 5 thành viên đề xướng thành lập ra tổ chức “PTTNDT và XDDC” và giữ cương vị Phó chủ tịch của phong trào.

Tân đã cùng đồng bọn thông qua và ký tên vào cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn để gửi ra nước ngoài.

Cùng với Nguyễn Đình Huy bàn bạc phải soạn thảo hiến pháp “Việt Nam Cộng hòa” để thay thế cho hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tân tiến hành gặp gỡ nhiều người để tuyên truyền lôi kéo vào tổ chức như Tám Di, Trác Quan Trường, Nguyễn Xuân Sơn và Nguyễn Ngọc Trượng.

Tân nuôi ý lớn, bằng cách tạo điều kiện cho Sơn và Trương hoạt động xây dựng phong trào ở Quảng Ngãi, y đã tự bỏ tiền cá nhân chu cấp cho Sơn và Trương 800.000 đồng để bọn chúng có chi phí hoạt động.

Ngoài ra, Tân còn viết nhiều bài với nội dung xuyên tạc, phản động, được báo Đông Á đăng tải 3 bài, với các nội dung như: Chính phủ và Đảng Cộng sản Việt Nam dùng bạo lực để đàn áp dân chúng, vi phạm nhân quyền, và xuyên tạc chế độ bầu cử đại biểu quốc hội của nhà nước ta.

Chính vì vậy mà Trương Minh Hoàng cầm đầu phong trào ở Úc đã gởi về cho Tân hai lần với số ngoại tệ 600 USD. Phạm Tường còn hăng hái đưa thêm cho y 2 triệu đồng để động viên Tân tiếp tục viết bài gửi ra nước ngoài…

Xét hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, vai trò trách nhiệm hình sự của y không kém gì so với Phạm Tường; hơn nữa thái độ khai báo không thành khẩn, ngoan cố ngụy tạo cho hành động tội ác của y. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 điều 73 của Bộ luật hình sự để xử phạt nghiêm bị cáo là đúng đắn.

Tuy nhiên, khi lượng hình, cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính nhân đạo của pháp luật và chính sách khoan hồng của Đảng, nhà nước để áp dụng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm e khoản 1 điều 38 BLHS (vì Tân tuổi đã già yếu, sinh ngày 9/12/1921).

Để tuyên phạt bị cáo mức án nhẹ dưới mức khởi điểm của khung hình phạt do điều luật qui định 11 năm tù là hợp tình hợp lý.

5.- Đồng Tuy

Trước 1975 y tham gia hoạt động trong nhiều đảng phái như Đại Việt quốc dân đảng, Tân Đại Việt, sau giải phóng năm 1975 phải đi học tập cải tạo.

Sau khi được trả tự do, y đã chủ động cấu kết với Nguyễn Đình Huy, sáng lập ra “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ”.

Đồng Tuy, đã cùng với Huy, trực tiếp soạn thảo tu chỉnh cương lĩnh chính trị, phần nói về văn hóa giáo dục, tuyên ngôn rồi cùng ký tên gửi ra nước ngoài. Y được đồng bọn tin cẩn cử làm uỷ viên hội đồng chỉ đạo phong trào, vì vậy, Tuy thường xuyên đến nhà Huy, bàn bạc trao đổi phương thức hoạt động của phong trào nhằm chống lại chánh quyền cách mạng.

Tích cực viết bài, được đăng tải trên báo Đông Á để tuyên truyền phong trào. Các bài viết đều mang nội dung bôi xấu chế độ XHCN ở Việt Nam và đả kích sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, như các bài “Sự kiện và dư luận”, “Vấn đề hòa giải”, “Cái hận nghìn đời của người Việt Nam”, “Sự chia rẽ” …

Đồng thời tích cực tham gia tuyên truyền để lôi kéo người vào tổ chức, chính vì vậy được Huy và Tường đưa cho 500 USD và 1 triệu đồng để mua xe máy làm phương tiện hoạt động.

Nghiêm trọng và ngoan cố hơn, vào tháng 4 năm 1994, công an TP. Hồ Chí Minh triệu tập Tuy đến để lập biên bản chỉ rõ hoạt động của “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” là trái pháp luật, yêu cầu đình chỉ ngay hành động sai trái. Đồng Tuy đã không thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tuyên bố thẳng thừng “còn một phút sống, tôi còn hoạt động cho phong trào.”

Rồi sau đó, y tham gia cuộc phỏng vấn có thu hình video do Nguyễn Tấn Trí thực hiện, để làm tài liệu gửi ra nước ngoài, cho đồng bọn tuyên truyền vu cáo chánh quyền Việt Nam. Tại cuộc phỏng vấn này, Đồng Tuy vu cáo là công an, chánh quyền gọi đến để hăm dọa, vi phạm quyền dân chủ… Đồng thời, y tái khẳng định trước ống kính của bọn phản động “tiếp tục hoạt động cho phong trào” để nhằm trấn an đồng bọn lưu vong ở nước ngoài.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Đồng Tuy đã thể hiện rõ vai trò là một trong những người tổ chức. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ cho y được qui định tại điểm e khoản 1 điều 38 BLHS. Vì Đồng Tuy tuổi đã già yếu, để áp dụng khoản 1 điều 73 điểm c khoản 1 điều 38 BLHS. Tuyên phạt y mức án nhẹ, thấp hơn mức khởi điểm của khung hình phạt, đã là thỏa đáng.

6.- Đối với Nguyễn Tấn Trí:

Trốn khỏi Việt Nam vào năm 1978, sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây y gia nhập “Đảng Liên minh dân chủ Việt Nam” do bọn phản động lưu vong ở nước ngoài sáng lập. Năm 1992 được kết nạp vào “Đảng Tân Đại Việt”. Chính vì vậy mà y đã được Lê Phát Minh và Cao Minh Châu tin dùng cử làm “Tổng thư ký báo Tự do dân bản”. Một tờ báo Việt ngữ phản động của Liên minh dân chủ Việt Nam xuất bản tại Mỹ.

Khi “Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ” ở Việt Nam do Nguyễn Đình Huy cầm đầu ra đời, Trí được Cao Minh Châu, Lê Phát Minh cử về Việt Nam vào tháng 6/1993, để tiến hành hoạt động hỗ trợ cho nhóm của Huy.

Chuyển giao cho nhóm của Huy 500 USD, tiền này do tổ chức Liên minh dân chủ Việt Nam ở nước ngoài tài trợ cho đồng bọn của Huy.

Tiến hành quay phim phỏng vấn Nguyễn Đình Huy, về tiểu sử hoạt động của Huy trước năm 1975 và hoạt động của “PTTNDT và XDDC” do Huy cầm đầu ở trong nước. Phỏng vấn Nguyễn Đình Huy về cách giải quyết những mâu thuẫn nội bộ giữa tổ chức “Liên minh dân chủ Việt Nam” và “Đảng Tân Đại Việt” rồi gửi các tài liệu phản động thu được cho Minh và Châu ở Hoa Kỳ, làm tài liệu tuyên truyền phát triển lực lượng ở nước ngoài.

Đến tháng 11/1993, Huy chuẩn bị ra mắt “PTTNDT và XDDC” ở trong nước nấp dưới hình thức “Hội thảo quốc tế về phát triển Việt Nam” thì Trí lại được cử về Việt Nam để giúp Huy và đồng bọn tổ chức lễ ra mắt phong trào dự định vào ngày 27/11/1993 tại khách sạn Metropole, TP. Hồ Chí Minh. Về Việt Nam lần này, Trí chuyển 1500 USD của tổ chức Liên minh dân chủ Việt Nam ở hải ngoại, cho nhóm của Huy – y thường xuyên gặp gỡ Huy để phối hợp thực hiện nhiệm vụ.

Ngoài ra, Trí là kẻ trực tiếp nhận bài viết của Bùi Kim Đính, đăng tải trên báo Việt ngữ ở nước ngoài. Chuyển giao cho Đính 100 USD, khoản tiền nhuận bút, và thay mặt cho tòa soạn báo “Tự do dân bản”, hứa sẽ tài trợ cho Đính mỗi tháng 50 USD, để Đính tích cực viết bài gửi cho báo đăng tải tuyên truyền nhằm chống lại chánh quyền.

Như vậy, hành vi phạm tội của Nguyễn Tấn Trí quá rõ thể hiện, vai trò của kẻ đồng phạm, giúp sức, tích cực và đắc lực cho tổ chức phản động nhằm lật đổ chánh quyền Việt Nam do Nguyễn Đình Huy cầm đầu. Với các bằng chứng nêu trên, nhưng Trí vẫn ngoan cố, không thừa nhận việc làm của y là trái pháp luật. Do đó y không có tình tiết giảm nhẹ nào để xem xét khi lượng hình.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 2 điều 73 bộ luật hình sự và tuyên phạt Nguyễn Tấn Trí 07 năm tù là thỏa đáng.

7.- Với Nguyễn Văn Biên và Nguyễn Văn Châu:

Trước năm 1975, Châu là trung uý trong quân đội ngụy, còn Biên là thiếu tá cảnh sát đã gây nhiều tội ác và nợ máu với nhân dân, điên cuồng chống phá cách mạng nên y đã được chánh quyền ngụy tặng thưởng nhiều huân, huy chương.

Sau khi học tập cải tạo, được Đảng và nhà nước khoan hồng, trả tự do. Thế nhưng Biên vẫn ngoan cố không từ bỏ tư tưởng chống đối cách mạng, được Đỗ Khanh tuyên truyền về “PTTNDT và XDDC”, y đã trực tiếp nghiên cứu “cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn, đường lối hoạt động của phong trào”, Biên đồng ý tham gia ngay và yêu cầu Khanh cho gặp Chủ tịch Phong trào là Nguyễn Đình Huy để tuyên thệ gia nhập tổ chức.

Biên đã cùng Đỗ Khanh đi Bình Thuận gặp Ngô Tấn và một số người khác rồi giao cho họ nhiều tài liệu phản động như cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn, Luận kiếm 1 và 2, báo Đông Á, hình ảnh lễ ra mắt Phong trào tại Mỹ, để lôi kéo tuyên truyền họ tham gia vào tổ chức, nhằm xây dựng và mở rộng lực lượng ở các tỉnh miền Trung.

Ngoài ra, Biên còn trực tiếp cất giữ nhiều tài liệu phản động như: cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn, chương trình hội thảo, bài diễn văn của Nguyễn Đình Huy, bản dịch “Đến lượt Việt Nam” để nhằm phổ biến tuyên truyền cho tổ chức.

Do hoạt động tích cực nên Biên đã được Huy kết nạp vào đảng “Tân Đại Việt”.

8.- Nguyễn Văn Châu:

Thường quan hệ mật thiết với một số bạn bè cũ là sĩ quan ngụy, chờ đợi thời cơ để hoạt động chống phá cách mạng.

Tháng 5 năm 1993, Châu được Bùi Kim Đính móc nối gia nhập tổ chức. Y đã nghiên cứu kỹ cương lĩnh chính trị, tuyên ngôn, và đồng ý với phương thức hoạt động của phong trào. Châu tham gia vào tổ chức với nhiệm vụ chở Đính đi liên lạc gặp gỡ đồng bọn nhiều lần, và may cờ đảng Tân Đại Việt. Đồng thời, Châu được Đính giới thiệu gia nhập vào “Đảng Tân Đại Việt”.

Xét hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Biên và Nguyễn Văn Châu, đều là kẻ đồng phạm với Nguyễn Đình Huy và đồng bọn khác nên đã bị Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 điều 73 Bộ luật hình sự để xử phạt nghiêm khắc các bị cáo là đúng pháp luật.

Tuy nhiên, khi lượng hình có xét đến nhân thân và sự hoạt động tích cực của từng bị cáo. Nguyễn Văn Biên là kẻ phạm tội nguy hiểm hơn Nguyễn Văn Châu, ngoài ra Châu phạm tội còn có tình tiết giảm nhẹ như khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải, nên được áp dụng thêm điểm h khoản 1 điều 38 BLHS và được hưởng mức hình phạt nhẹ, thấp dưới khung hình phạt do điều luật qui định, là thể hiện chánh sách khoan hồng của Đảng và pháp luật. Đối với Nguyễn Văn Biên bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt 8 năm tù là thỏa đáng. Nay không còn tình tiết giảm nhẹ nào khác để xét giảm án cho hai bị cáo.

Ảnh chụp bài báo về cái gọi là “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền nhân dân”, đăng trên báo An ninh Thủ đô, số 530, Chủ Nhật ngày 3-9-1995

Bởi lẽ nêu trên, Tòa Phúc Thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại TP. Hồ Chí Minh

Quyết Định

– Căn cứ điều 220 Bộ luật Tố tụng hình sự, bác kháng cáo của tất cả các bị cáo và y án sơ thẩm.

– Tuyên bố: Nguyễn Đình Huy (tức Nguyễn Việt Thắng, Việt Huy, Năm và Ngô Trần Luận), Phạm Tường (tức Phạm Toàn), Bùi Kim Đính (tức Việt Hùng, Trần Thúc Vũ, Trần Phiên Ngung, Hoàng Miên, Đính), Nguyễn Ngọc Tân (tức Phạm Thái, Phạm Tử Sản, Bảy Bóp), Đồng Tuy (tức Việt Phong, Trần Phong), Nguyễn Tấn Trí, Nguyễn Văn Biên và Nguyễn Văn Châu, đều phạm tội “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền nhân dân” theo qui định tại điều 73 Bộ luật hình sự.

– Áp dụng khoản 1 điều 73 Bộ luật hình sự, xử phạt:

+ Nguyễn Đình Huy (tức Nguyễn Việt Thắng, Việt Huy, Năm, Ngô Trần Luận) 15 (mười lăm năm) tù. Thời hạn tù kể từ ngày 17/11/1993).

+ Phạm Tường (tức Phạm Tòan) 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù kể từ ngày 17/11/1993.

– Áp dụng khoản 1 điều 73, điểm h điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt

+ Bùi Kim Đính (tức Việt Hùng, Hoàng Miên, Trần Thúc Vũ, Trần Phiên Ngung và đính) 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù kể từ ngày 11/11/1973.

– Áp dụng khoản 1 điều 73, điểm e khoản 1 điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt

+ Nguyễn Ngọc Tân (tức Phạm Thái, Phạm Tủ Sản, Bảy Bốp) 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/02/1995.

+ Đồng Tuy (tức Việt Phong, Trần Phong) 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/02/1995.

– Áp dụng khoản 2 điều 73 (riêng Nguyễn Văn Châu) được áp dụng thêm điểm h khoản 1 điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt

1/- Nguyễn Tấn Trí: 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù kể từ ngày 13/11/1993

2/- Nguyễn Văn Biên: 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù kể từ ngày 11/02/1995.

3/- Nguyễn Văn Châu: 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù kể từ ngày 11/02/1995.

– Áp dụng điều 30, điều 31, khoản 1 và 2 điều 100 Bộ luật hình sự, phạt quản chế và tước một số quyền công dân như:

+ Quyền bầu cử đại biểu các cơ quan quyền lực nhà nước.

+ Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vụ trang nhân dân.

+ Quyền đảm nhiệm cương vị phụ trách trong các tổ chức xã hội.

Đối với các bị cáo sau đây kể từ sau khi mãn hạn tù, với thời hạn cụ thể như sau:

– Nguyễn Đình Huy: 05 (năm) năm.

– Phạm Tường: 05 (năm) năm.

– Bùi Kim Đính: 05 (năm) năm.

– Nguyễn Ngọc Tân: 05 (năm) năm.

– Đồng Tuy: 05 (năm) năm.

– Nguyễn Văn Biên: 05 (năm) năm.

– Nguyễn Văn Châu: 05 (năm) năm.

Áp dụng điều 29, khoản 2 điều 100 Bộ luật hình sự, cấm cư trú tại Việt Nam đối với các bị cáo sau đây kể từ khi mãn hạn tù, với thời hạn như sau:

– Nguyễn Tấn Trí: 05 (năm) năm.

– Trần Quang Liêm: 05 (năm) năm.

– Các phần quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

– Các bị cáo: Nguyễn Đình Huy, Phạm Tường, Bùi Kim Đính, Nguyễn Ngọc Tân, Đồng Tuy, Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Tấn Trí và Nguyễn Văn Châu phải nộp mỗi tên: 50.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án này là chung thẩm.

Các thẩm phán,                                   Chủ tọa phiên tòa,

(đã ký)                                                     (đã ký)

Châu Minh Đức, Trần Đức Trung Nguyễn Xuân Phát

Bình luận về bài viết này