Ts. Nguyễn Đình Thắng
Theo Machsong
Cuối năm 1988 tôi đến Hồng Kông, lẻn vào một số trại cấm để tìm hiểu điều kiện sống và tâm tư của đồng bào thuyền nhân đến sau ngày đóng cửa trại. Thấy tôi từ Mỹ đến, mọi người nhao nhao kêu cứu, tưởng lầm tôi đại diện cho người Việt ở hải ngoại. Lúc ấy tôi vừa mới tham gia BPSOS, hoàn toàn bỡ ngỡ, và chỉ có thể đáp lại rằng: “Tôi chưa biết phải làm gì nhưng hứa sẽ ở bên đồng bào đến ngày cuối cùng.” Và tôi đã giữ, vẫn giữ lời hứa ấy mãi đến ngày hôm nay vì vẫn còn một số cựu thuyền nhân lạc loài ở Thái Lan, mà lẽ ra họ đã được tái định cư 30 năm trước nếu không vì lòng sân hận của một giới chức Bộ Ngoại Giao đã dùng một người Việt cúc cung tận tuỵ phản bội lại chính đồng bào mình.
Ngay sau chuyến viếng thăm Hồng Kông ấy, tôi đã đi nhiều nơi, đến nhiều quốc gia để vận động từng người và từng nhóm người giải cứu đồng bào thuyền nhân. Một mặt, tôi đồng sáng lập chương trình trợ giúp pháp lý, có tên là Legal Assistance for Vietnamese Asylum Seekers (LAVAS), mở văn phòng pháp lý ở Philippines và ở Hồng Kông để giúp thuyền nhân đối phó thể thức “thanh lọc” bất công. Mặt khác, BPSOS công khai chống lại Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện (Comprehensive Plan of Action, CPA) mà Hoa Kỳ là quốc gia chủ xướng để bảo vệ đồng bào trước mối nguy cưỡng bức hồi hương. Chúng tôi chủ trương xóa bỏ kết quả “thanh lọc” CPA, ngưng cưỡng bức hồi hương, và tái thanh lọc từ đầu, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ.

Viếng thăm trại cấm Chimawan, Hồng Kông, tháng 12 năm 1988
May mắn, đầu năm 1995, DB Christopher Smith và vị Cố Vấn Trưởng là Ông Grover Joseph Rees đồng ý với chủ trương này; họ đưa ra điều khoản tu chính trong luật ngân sách cho Bộ Ngoại Giao, cấm LHQ dùng tiền viện trợ của Hoa Kỳ cho cưỡng bức hồi hương cho đến khi tất cả thuyền nhân được phỏng vấn lại bởi Sở Di Trú Hoa Kỳ và theo tiêu chuẩn tị nạn của Hoa Kỳ, bất chấp kết quả thanh lọc CPA. Điều khoản tu chính này được mệnh danh là điều khoản “chống CPA”.
Cuộc tranh đấu đầy chông gai
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, tác giả của chương trình CPA, lồng lộn chống lại điều khoản tu chính này; họ điều động các tổ chức nhận tiền “tái hội nhập” thuyền nhân hồi hương làm đội quân “dư luận viên”, vừa tìm mọi cách đánh bại điều khoản “chống CPA” của DB Smith ở Quốc Hội, vừa dập tắt mọi hy vọng và ý chí đấu tranh của thuyền nhân ở các trại. Trong đội quân ấy, Ông Lê Xuân Khoa là nhân vật then chốt vì là người Việt Nam và được tiếng là bảo vệ người tị nạn. Lập luận của họ là:
- Không người tị nạn nào bị “rớt thanh lọc” bất công vì CUTN/LHQ giám sát chặt chẽ tiến trình thanh lọc CPA.
- Việt Nam đang mở cửa và không chủ trương vi phạm nhân quyền. Các tổ chức dược BNG tài trợ, trong đó có tổ chức SEARAC của Ông Khoa, làm chứng là không thuyền nhân hồi hương nào bị đàn áp.
- Tất cả thuyền nhân còn ở các trại tạm dung đều bắt buộc phải hồi hương, không cách nào khác. BNG và LHQ bảo đảm sự an toàn khi về nước.
- BNG chấp nhận cứu xét định cư một ít trường hợp có liên hệ với Hoa Kỳ. Ông Lê Xuân Khoa gọi đó là giải pháp “khu vực xám”. “Xám” vì tuy không đủ tư cách tị nạn nhưng được cứu xét trên cơ sở nhân đạo.
Nhằm đánh bại lập luận này, DB Smith cùng với chúng tôi đã phối hợp thực hiện 4 buổi điều trần liên tiếp, cho thấy:
- Thanh lọc tị nạn dưới CPA đầy bất công. Nhiều cựu luật sư CUTN/LHQ và cựu thuyền nhân đã định cư làm chứng về tình trạng đòi tiền, đòi tình trong thanh lọc CPA.
- Hàng trăm thuyền nhân hồi hương bị bắt bớ, bỏ tù, và có người bị xử tử. Việt Nam tiếp tục đàn áp nhân quyền nghiêm trọng, và BNG và LHQ không có khả năng can thiệp cho họ.
- Giải pháp “khu vực xám” hoàn toàn vô dụng. Trong số hơn 500 hồ sơ thí điểm mà BPSOS chuyển cho BNG, không một hồ sơ nào được cứu xét theo tiêu chuẩn “nhân đạo” như họ rao giảng. Ngay cả các thuyền nhân có hồ sơ bảo lãnh đoàn tụ gia đình đáo hạn để cứu xét còn bị BNG chặn lại không cho Sở Di Trú phỏng vấn định cư; các hồ sơ này chỉ được giải quyết vì LAVAS kiện BNG lên đến Tối Cao Pháp Viện.
Bằng nhiều cách và từ nhiều phía, BNG và đoàn quân dư luận viên của họ tới tấp tấn công điều khoản “chống CPA” của DB Smith, nhưng Hạ Viện và Thượng Viện Hoa Kỳ vẫn biểu quyết thông qua. Tổng Thống Clinton phủ quyết toàn bộ luật ngân sách Bộ Ngoại Giao, trong đó có điều khoản “chống CPA” của DB Smith. Bù lại, Tòa Bạch Ốc ra lệnh Bộ Ngoại Giao hợp tác với văn phòng DB Smith để thực hiện nội dung của điều khoản tu chính này.
Tháng 4 năm 1996, Việt Nam đồng ý hợp tác để đổi lấy ưu đãi giảm thuế quan theo tiêu chuẩn “Tối Huệ Quốc” trong mậu dịch với Hoa Kỳ. Chương trình Cơ Hội Tái Định Cư Cho Người Việt Hồi Hương (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees), tức ROVR, ra đời.

Việt Nam chuội lời
Theo thoả thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, chương trình ROVR bắt đầu thực hiện tháng 9 năm 1996. BPSOS cung cấp cho Bộ Ngoại Giao và Sở Di Trú Hoa Kỳ hơn 450 hồ sơ để phỏng vấn. Nhưng Việt Nam trở mặt, không cho phép thuyền nhân hồi hương tiếp cận viên chức tị nạn của Sở Di Trú Hoa Kỳ với lập luận rằng những người hồi hương đã ổn định cuộc sống nên không muốn đi Mỹ.
Cuối năm 1997, DB Smith cử Ông Rees cùng với tôi đi Việt Nam để xem xét tình hình thực hư ra sao. Khi gặp chúng tôi, các thuyền nhân hồi hương, dù có sự hiện diện của công an và cán bộ nhà nước, khẩn khoản cầu cứu với chính phủ Hoa Kỳ. Khi trở về, chúng tôi chuyển các lời cầu cứu này đến Quốc Hội và BNG.
Tháng 6 năm 1998 Hạ Viện tổ chức điều trần về quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam, rồi tháng 7 Thượng Viện cũng tổ chức điều trần về cùng đề tài. DB Smith và tôi cùng tham gia phát biểu tại cả 2 buổi điều trần, chỉ ra sự trở mặt của nhà nước Việt Nam khi tiếp tục ngăn chặn không cho viên chức tị nạn của Hoa Kỳ phỏng vấn thuyền nhân hồi hương. Cả Hành Pháp lẫn Quốc Hội Hoa Kỳ cùng đưa ra thông điệp cứng rắn: Không hợp tác với ROVR thì đừng mong quy chế tối huệ quốc. Việt Nam nhanh chóng đáp ứng. Cuối cùng hơn 18 nghìn đồng bào thuyền nhân được Hoa Kỳ công nhận tư cách tị nạn và “bốc” đi định cư.
Tỉ lệ được cứu xét là tị nạn vượt 95%. Tỉ lệ này xác nhận những điều chúng tôi và DB Smith tuyên bố trước đây là có căn cứ: Thanh lọc CPA hỏng hoàn toàn, phải xóa sạch và làm lại từ đầu, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ và bởi viên chức tị nạn của Sở Di Trú Hoa Kỳ. Nó cho thấy tuyệt đại đa số thuyền nhân đã bị đàn áp hoặc đối diện nguy cơ bị đàn áp sau khi hồi hương, không như Bà Oakley và đạo quân dư luận viên của BNG từng quả quyết với Quốc Hội rằng không ai là tị nạn. Giải pháp “khu vực xám” hứa hẹn cứu xét lại một ít trường hợp trên căn bản nhân đạo vì có mối liên hệ với Hoa Kỳ chỉ là đòn hoả mù nhằm bảo vệ CPA đến cùng và đánh bại điều khoảng chống CPA của DB Smith.
Sau này, chương trình ROVR được nới rộng sang Philippines nơi hơn 1500 đồng bào thuyền nhân được chính phủ sở tại cho ở lại, không bị hồi hương. Tỉ lệ được nhận tái định cư Hoa Kỳ cũng xấp xỉ tỉ lệ ROVR ở Việt Nam.

Lòng sân hận
Bà Oakley, đứng đầu chương trình tị nạn của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, phải miễn cưỡng tuân lệnh Tòa Bạch Ốc hợp tác với DB Smith để hình thành chương trình ROVR. Chính bà ta đã quyết định bắt thuyền nhân hồi hương trước đã nếu muốn được Hoa Kỳ phỏng vấn tái định cư tị nạn. Và cũng chính bà ta áp đặt các mốc điểm oái oăm cho những ai được tham gia chương trình ROVR.
Đúng ngày Lễ Độc Lập 4 tháng 7, 1996, phóng viên lừng danh Ted Kopple đã phỏng vấn, trên chương trình Nightline của đài truyền hình ABC, 3 nhân vật chủ chốt liên quan đến chương trình ROVR: Bên bảo vệ CPA là Bà Oakley và bên chủ trương xoá bỏ CPA là Ls. Daniel Wolf và tôi.
Dù lúc ấy chương trình ROVR đã chính thức ra đời, Bà Oakley vẫn khư khư rằng không thuyền nhân nào bị từ chối tư cách tị nạn một cách oan sai và bảo lưu giải pháp “khu vực xám” – chỉ phỏng vấn một số nhỏ trường hợp liên quan đến Hoa Kỳ trên cơ sở nhân đạo.
Khi ký giả Ted Kopple hỏi tại sao không phỏng vấn ROVR ngay tại các quốc gia tạm dung mà bắt thuyền nhân phải hồi hương. Bà Oakley giải thích rằng các quốc gia tạm dung không chấp nhận điều này.
Tôi chỉ ra là bà ta nói sai. Chính phủ Malaysia sẵn sàng chấp nhận cho phỏng vấn tại chỗ. Chính phủ Phi Luật Tân ngưng cưỡng bức hồi hương và cho thuyền nhân tạm cư dài hạn trên đất nước của họ, và không ngăn cản Hoa Kỳ phỏng vấn ROVR trên đất nước họ — điều này sau đó đã được thể hiện rõ rệt khi Hoa Kỳ nới rộng chương trình ROVR để tái định cư hơn 1.500 cựu thuyền nhân được tạm cư. Ký giả Ted Kopple tiết lộ là chính phủ Thái Lan cho đài ABC biết là họ không ngăn cản Hoa Kỳ phỏng vấn thuyền nhân ngay ở trại Sikiew. Chưa kể, luật pháp Hồng Kông không ngăn cản thuyền nhân đi định cư nếu có quốc gia tiếp nhận. Bà Luật Sư Pam Baker đến từ Hồng Kông đã giải thích điều này tại buổi điều trần ngày 25 tháng 7, 1995 do DB Smith chủ toạ, có sự hiện diện của Bà Oakley.

Về mốc điểm để được tham gia chương trình ROVR — hồi hương không trước ngày 1 tháng 10, 1995 hoặc ghi danh tham gia ROVR không sau cuối tháng 6, 1996 – thì cũng do Bà Oakley tùy tiện đặt ra. Ls. Daniel Wolf chỉ ra rằng các quốc gia tạm dung không có lý do gì phải quan tâm đến các mốc điểm này vì chúng không liên can đến họ. Nổi nóng, vị luật sư này, đồng sáng lập chương trình LAVAS với tôi, kết luận thẳng thừng rằng đó là sự nhỏ nhen sân hận. Bà Oakley ngồi thộn ra, không cãi lại được.
Nếu Bà Oakley ứng xử có tâm, không nhỏ nhen vì thua cuộc thì biết bao thuyền nhân đã có cơ hội đến tự do thẳng từ các quốc gia tạm dung, như sau này áp dụng cho các thuyền nhân ở Phi Luật Tân. Con số có lẽ không chỉ gần 20 nghìn mà có thể gấp đôi, gấp ba những đồng bào đến được tự do.
Nỗi đau và nỗi nhục
Để đánh bại điều luật “chống CPA” của DB Smith, Bà Oakley sử dụng một trợ cụ đắc lực: Ông Lê Xuân Khoa, lúc ấy là Giám Đốc Điều Hành của tổ chức SEARAC. Nhân danh là người Việt từng tới lui Việt Nam nhiều lần và có văn phòng hoạt động ở Việt Nam, ông ta khẳng định là không thuyền nhân hồi hương nào bị đàn áp hay ngược đãi, rằng thanh lọc CPA được thực hiện quy mô và tốn kém dưới sự giám sát chặt chẽ và bảo đảm của CUTN/LHQ, rằng Việt Nam đang cải thiện nhân quyền nên không đàn áp thuyền nhân hồi hương. Ông ta rao giảng giải pháp “khu vực xám” của Bà Oakley đến các trại tạm dung, trong cộng đồng người Việt tị nạn, trước Quốc Hội và trên báo chí Hoa Kỳ.
Nếu như không có một “dư luận viên” cúc cung tận tuỵ như vậy, có lẽ Bà Oakley đã chấp nhận hợp tác với DB Smith sớm hơn và ít sân hận hơn do bị thua đau. Và có lẽ đã không có các cuộc cưỡng bức hồi hương đổ máu lênh láng, đã không có những người hồi hương sau đó lại phải chạy sang Thái Lan lánh nạn vì bị đàn áp ở Việt nam để rồi kéo lê cuộc sống vô thừa nhận đến tận hôm nay.
Không biết Bà Oakley đánh giá thế nào về một người cúc cung tận tụy như thế. Nhưng rõ ràng bà ta đã không kéo người đó cùng lên chương trình Nightline của Ted Kopple, có lẽ vì vai trò trợ cụ lúc ấy đã thành vô dụng.
Bất luận, là người Việt, tôi thấy nhục lây. Và đau lòng cho đồng bào bị phản bội.
Phủi tay ra đi, biến mất
Sau cuộc phỏng vấn trên chương trình Nightline đúng Ngày Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1996, Bà Oakley đã đứng ra bên lề của chương trình ROVR. Cấp trên của bà ta, trên 4 cấp, là ngoại trưởng Hoa Kỳ đã vào cuộc để ép nhà nước Việt Nam nhượng bộ, thực hiện chương trình ROVR. Sau đó Sở Di Trú Hoa Kỳ đảm nhiệm việc phỏng vấn định cư. Bà Oakley không còn vai trò gì.
Ông Lê Xuân Khoa thì mất tăm hơi từ cuối tháng 4 năm 1996, trùng thời điểm Toà Bạch Ốc quyết định hợp tác với DB Smith để hình thành chương trình mà sau này được mệnh danh là ROVR. Tài liệu nội bộ của SEARAC cho thấy Hội Đồng Quản Trị của tổ chức này có vẻ sửng sốt khi được DB Robert Dornan, sau khi thực hiện cuộc điều tra, thông báo rằng vị Giám Đốc Điều Hành của họ không có bằng tiến sĩ như tuyên bố. Ngày 25 tháng 4, Ông Lê Xuân Khoa gửi thư cho Hội Đồng Quản Trị phân trần và xin lỗi về “sự hiểu lầm” này. Ít lâu sau, ông ta ra đi. Đây là đề tài của một loạt bài khác.

Di lụy cho biết bao thân phận đồng bào
Bị cưỡng bức hồi hương sau thời hạn ghi danh ROVR là 30 tháng 6, 1996, nhiều cựu thuyền nhân trước kia ở trại Sikiew đã bị đàn áp sau khi về đến Việt Nam nên ít lâu sau quay lại Thái Lan lánh nạn. Cuối năm 2017, tại một buổi họp ở Bangkok, Thái Lan, LM Peter Prayoon Namwong cho tôi biết đang cưu mang trên 100 cựu thuyền nhân trại Sikiew trước kia. Tám năm trôi qua, một số đã về Việt Nam, một số di chuyển đến các nơi xa xăm, một số đã ra người thiên cổ, và một số bặt vô âm tín. Tôi chỉ còn biết khoảng 30 người loanh quanh ở Bangkok. Họ là chứng tích còn sót của lòng sân hận và sự phản bội.

Tôi không biết bao nhiêu thuyền nhân hồi hương đang ở Việt Nam đã hụt cơ hội đến tự do cũng vì lòng sân hận và sự phản bội ấy. Thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn từ Việt Nam của người hồi hương hỏi về chương trình ROVR. Từ năm 2001 DB Smith đã cài vào Dự Luật Nhân Quyền Việt Nam điều khoản mở lại chương trình này nhưng không được Quốc Hội thông qua, liên tục cứ 2 năm một như vậy cho đến cách đây vài năm thì bỏ cuộc.
Song song với dự luật của DB Smith, trong âm thầm BPSOS vận động Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mở một chương trình định cư tị nạn không phổ biến, và đưa được vài trăm người trong hoàn cảnh đặc biệt ra đi, trong đó có một số cựu thuyền nhân hồi hương.
Trang sử thuyền nhân đóng lại với gần 20 nghìn đồng bào thuyền nhân, nạn nhân của thanh lọc CPA đầy bất công, lên đường định cư tị nạn ở Hoa Kỳ từ Việt Nam và sau này từ Philippines. Nhưng con số lớn hơn nhiều lần đã mất cơ hội vĩnh viễn. Và hiện nay vẫn còn vài chục cựu thuyền nhân sống vô thừa nhận ở Thái Lan chưa biết đến bao giờ; có người đã nằm xuống khi chưa kịp hưởng tự do.

Bài này đóng lại loạt bài “Kỳ tích chương sử cuối thuyền nhân Việt Nam” gồm có:
Bài 1 – Buổi điều trần định mệnh
Bài 2 – Cuộc chiến cam go tại Hạ Viện Hoa Kỳ
Bài 3 – Vừa đàm vừa đánh trong cuộc chiến ở Thượng Viện Hoa Kỳ
Bài 4 – Buổi điều trần kín giữa tháng 7, 1995
* Video vinh danh các Anh Hùng Sài Gòn
Bài 5 – Buổi điều trần ngày 25 tháng 7, 1995
Bài 6 – Có bị đàn áp sau khi hồi hương?
Bài 7 – Con số thực tế thuyền nhân hồi hương bị đàn áp
Bài 8 – Thanh lọc CPA phải xoá đi làm lại từ đầu
Bài 9 – Các hồ sơ lật tẩy “Khu Vực Xám”
Bài 10 – Sự tồi bại trong thanh lọc tị nạn
Bài 11 – Các nạn nhân đích thân lên tiếng tại Quốc Hội Hoa Kỳ
* Video vinh danh tổ chức Counterparts
Bài 12 – Việt Nam có thực sự thay đổi và ngưng chính sách đàn áp?
Bài 13 – ROVR ra đời trễ
Bài 14 – Nút nghẽn cuối cùng
Bài 15 – Di lụy của lòng sân hận và sự phản bội