Phong Cầm
Theo Luatkhoa
Khi bắt đầu nắm quyền tổng thống và thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa ngày 26/10/1955, ông Ngô Đình Diệm đã khởi động một loạt chính sách Việt hóa người Hoa trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
Nhà nghiên cứu người Đài Loan Chung-Ting Huang, trong bài viết đăng trên tạp chí của Bảo tàng Lịch sử Quốc lập Đài Loan [1], đã phân tích chính sách bản địa hóa hay thậm chí có thể coi là đồng hóa người Hoa của Việt Nam Cộng hòa. Điều này thể hiện qua Luật Quốc tịch, buộc người Hoa nhập quốc tịch Việt Nam; cùng với đó là các biện pháp hướng tới loại bỏ sự thống trị của người Hoa về kinh tế.
Sự ra đời của Luật Quốc tịch năm 1955
Dụ số 10 quy định về Luật Quốc tịch của Việt Nam Cộng hòa ra đời vào tháng 12/1955, tức là chưa đầy hai tháng sau ngày thành lập Đệ nhất Cộng hòa. Trong luật này có những quy định liên quan tới người Hoa, bao gồm:
- Tất cả người Minh Hương (những người Hoa ở Việt Nam có nguồn gốc di cư sang Việt Nam từ thời nhà Minh) bất kể tuổi tác, nơi cư trú, có giấy tờ tùy thân Việt Nam hoặc của nước ngoài, đều được coi là công dân Việt Nam (Điều 11, Khoản 4).
- Trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có mẹ là người Việt Nam và cha là người Trung Quốc, cũng như trẻ em ngoài giá thú từ một người mẹ Việt Nam và người cha Trung Quốc sau khi xác định, đều được coi là công dân Việt Nam (Điều 12, Khoản 3 và Điều 13, Khoản 2).
- Sau khi luật này được công bố, người Minh Hương sẽ tự khắc trở thành công dân Việt Nam và không có quyền từ bỏ quốc tịch (Điều 15).
- Trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có cha mẹ đều là công dân Trung Quốc, nếu một trong hai người sinh ra tại Việt Nam, thì trẻ em đó là công dân Việt Nam và không có quyền từ bỏ quốc tịch (Điều 16).
Ngay sau đó, Ngô Đình Diệm tiếp tục ký ban hành Dụ số 48 (tháng 8/1956), sửa đổi Điều 16 của Luật Quốc tịch thành: Tất cả trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có cha mẹ đều là người Trung Quốc, đều được coi là công dân Việt Nam. Bất kể cha mẹ có phải là người gốc Việt hay không, nếu trẻ em sinh ra tại Việt Nam thì nghiễm nhiên được coi là công dân Việt Nam.
Để thực thi luật mới này, chính quyền Sài Gòn đã tổ chức diễn thuyết và thành lập các văn phòng (có bảy văn phòng tại Sài Gòn và các tỉnh thành) để thuyết phục người Hoa nhập tịch. Cảnh sát kiểm tra người Hoa, gây ùn tắc tại các khu chợ, rạp chiếu phim và nơi tập trung của cộng đồng người Hoa.
Ngoài ra, Dụ số 52 được ban hành vào tháng 8/1956 cũng đã đưa ra một loạt các quy định “Việt hóa” tên họ tên của người Hoa. Cụ thể như:
- Trẻ em có quốc tịch Việt Nam, bất kể quốc tịch gốc là Việt Nam hay nước ngoài, khi sinh ra và được báo cáo, chỉ được sử dụng tên ghi bằng chữ Việt (Điều 1).
- Những người có quốc tịch Việt Nam, bất kể quốc tịch gốc là Việt Nam hay nước ngoài, đã sử dụng tên gọi bằng chữ ngoại quốc và trẻ em sinh ra trước khi Dụ số 48 được công bố, cha mẹ là người Trung Quốc, đều phải điền đơn xin đổi tên bằng chữ Việt trong vòng sáu tháng, tức là trước ngày 28/2/1957 (Điều 2, khoản 1).
- Cơ quan chịu trách nhiệm phải thay đổi tên của người liên quan trong vòng ba ngày sau khi nhận đơn xin (Điều 2, khoản 2 và 3).
- Khi đưa tên mới bằng chữ Việt vào các giấy tờ, tên ngoại quốc cũng sẽ bị xóa bỏ (Điều 3).
- Người vi phạm giới hạn sáu tháng sẽ bị phạt tiền và tên của họ sẽ được tòa án quyết định (Điều 5).
Chung-Ting Huang lý giải nguyên nhân trước tiên dẫn đến các chính sách này của Việt Nam Cộng hòa là nhằm kiểm soát và loại bỏ nguy hại, bao gồm những quan ngại về an ninh quốc gia. Do số lượng Hoa kiều tại Việt Nam rất lớn, và một khi xảy ra chiến tranh thì nhóm người này khó có thể duy trì tính trung lập.
Động thái của chính quyền miền Nam cũng nhằm chấm dứt đặc quyền của người Minh Hương có được thời chính quyền thuộc địa Pháp ở miền Nam.
Cùng các nguyên nhân này, Ngô Đình Diệm muốn người Hoa hội nhập bình đẳng vào đời sống của người Việt, được hưởng đầy đủ các quyền lợi của công dân. Một mặt, chính quyền miền Nam muốn giành lại thế thượng phong về kinh tế từ tay người Hoa; mặt khác, chính quyền cũng muốn huy động sức mạnh toàn dân, trong đó có thế lực của Hoa kiều, để chống cộng.
Ba cấp độ của chính sách với người Hoa
Nhóm thi hành chính sách quốc tịch với người Hoa hầu hết là những nhân vật quyền lực, trong đó có Phó Tổng thống kiêm Bộ trưởng Tài chính và Kinh tế Nguyễn Ngọc Thơ; Đặc ủy Trung Hoa Sự vụ của chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Vàng, Đốc phủ sứ Nguyễn Phú Hải.
Chính sách Việt hóa người Hoa của Việt Nam Cộng hòa có thể chia thành ba cấp độ: (1) Cho người Hoa sinh sống tại đất nước này có thể trực tiếp nhận quốc tịch Việt Nam theo luật pháp; (2) Áp dụng nhiều biện pháp, bao gồm cả việc phân biệt đối xử để buộc người Hoa chuyển quốc tịch; (3) Thay đổi cấu trúc người Hoa để biến cộng đồng người Hoa trở thành cộng đồng Hoa có quốc tịch Việt Nam.
Theo tác giả của nghiên cứu, thực chất, chính sách người Hoa của Việt Nam Cộng hòa là một chính sách đồng hóa.
Để thực hiện chủ trương này, chính quyền miền Nam đã (1) hủy bỏ hội hương và thanh lọc tài sản của các hội Trung Hoa ở khắp nơi, cũng như quản lý tài sản công cộng của người Hoa; (2) ép người Hoa kết hôn với người Việt bằng cách ra quy định cho phép các doanh nhân người Hoa trước đây bị cấm kinh doanh 11 ngành nghề theo Dụ số 53 (tháng 9/1956) có thể kết hôn với vợ là người Việt để chuyển giấy phép kinh doanh vào tên vợ, nhằm bảo tồn công ty; và (3) hạn chế sinh viên người Hoa đi du học, yêu cầu học sinh trường người Hoa mặc áo dài và tham gia lễ nâng cờ quốc gia Việt Nam.
Nói lại, vì chính quyền Sài Gòn tập trung dọn hết tàn dư của hệ thống thuộc địa, thế nên việc loại bỏ đặc quyền của người Hoa trở thành vấn đề cấp bách phải giải quyết.
Sau khi đạt được độc lập chính trị khỏi thực dân Pháp, chính phủ miền Nam đã tìm kiếm sự độc lập về kinh tế. Vì người Hoa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chính quyền mới phải đối mặt với câu hỏi làm thế nào để xử lý vấn đề kinh tế của người Hoa. Họ buộc phải lựa chọn giữa “loại bỏ” hoặc “chấp nhận”.
Nếu chọn giải pháp loại bỏ thì có thể dẫn đến sự sụp đổ kinh tế Việt Nam. Nhưng nếu lựa chọn chấp nhận, kinh tế Việt Nam sẽ không thể hoàn toàn độc lập. Có thể thấy chính quyền Sài Gòn đã giải quyết vấn đề trên bằng cách “chuyển đổi quốc tịch của người Hoa”, từ đó loại bỏ nền kinh tế của người Hoa gốc và chấp nhận nền kinh tế của người Việt gốc Hoa.
Dư luận phản ứng thế nào?
Theo dữ liệu mà tác giả thu thập được từ các cơ quan ngoại giao, hơn một nửa người Hoa ở miền Nam thời điểm đó bị buộc phải nhận quốc tịch Việt Nam. Dụ số 48 đã bị cộng đồng người Hoa phản đối gay gắt. Lý do, người Hoa chưa muốn tham gia nghĩa vụ quân sự, chưa muốn tiếp nhận nền giáo dục Việt Nam, chưa đề cao người Việt hoặc vì tư tưởng dân tộc sâu sắc.
Số người Hoa nhập tịch chỉ có hơn một trăm người, trong khi số người đăng ký làm Hoa kiều tại Đại sứ quán Đài Loan ở Việt Nam đã đạt đến 140.000 người. Rất ít những người Hoa chấp nhận đổi quốc tịch. Cùng với phản ứng này, người Hoa chỉ trích Đài Loan và đại sứ quán không lên tiếng phản đối mạnh mẽ các chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Chung-Ting Huang cũng trích dẫn nghiên cứu của một học giả người Hoa, cho rằng bấy giờ xã hội Việt Nam được chia thành hai phe, phe ủng hộ và phe phản đối người Hoa.
Trong đó, phe ủng hộ chủ yếu gồm những người giàu có hay người đã tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa; cùng với đó là nhóm người có nguồn gốc hoặc có mối quan hệ về mặt thương mại với người Hoa.
Phe phản đối thì bêu xấu người Hoa. Họ cho rằng người Hoa đã “bán” Việt Nam cho Pháp. Để rồi, được sự hậu thuẫn của Pháp, người Hoa dễ dàng nắm trong tay nhiều đặc quyền, nguồn lực, nhất là các công ty lớn và đất đai ở Việt Nam. Phe phản đối còn cho rằng người Hoa tiêm nhiễm vào xã hội Việt Nam nhiều tệ nạn và thao túng kinh tế, dân số tại Việt Nam, dễ thấy nhất là sự hiện diện của khu phố người Hoa như cảng Chợ Lớn ở thủ đô Sài Gòn.
Phản ứng của Trung Hoa
Đài Loan, lúc đó tự coi là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc và là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, ban đầu không có động thái gì khi luật này ra đời. Nhưng sau đó, Đài Loan đã gián tiếp cho thấy sự bất bình khi gặp gỡ phái đoàn ngoại giao Mỹ và ngỏ ý nhờ Mỹ can thiệp.
Các lập luận của Đài Loan bao gồm:
- Đài Bắc không có ý kiến với việc nhập tịch của người Hoa, nhưng không bằng lòng với chính sách ép buộc, sẽ gây khó khăn cho Đài Loan và có thể là cái cớ để Trung cộng (Bắc Kinh) chia rẽ và phân tán.
- Cả bộ luật quốc tịch chỉ nhằm vào người Hoa mà không nhằm vào những nhóm người khác, do đó, rõ ràng có sự phân biệt đối xử.
- Chính sách được đưa ra mà không có sự thảo luận với Đài Loan. Hơn nữa, việc yêu cầu người Hoa nào không muốn nhập tịch Việt có thể tự do rời đi là nhập nhằng giữa quyền quốc tịch và quyền được cư trú.
- Các quy định trong luật này có hiệu lực ngược dòng, có nghĩa là luật này sẽ đi ngược với các nguyên tắc pháp lý trước đó.
- Theo thỏa thuận Hoa – Pháp và Hoa – Việt, người Hoa có những đặc quyền tại Việt Nam. Khi ký kết Hiệp ước Geneva năm 1954, Việt Nam đã cam kết rằng mọi quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ các hiệp ước hoặc thỏa thuận quốc tế do Pháp ký kết cho Việt Nam vẫn còn hiệu lực.
Tuy nhiên, phía Đài Bắc không làm sự việc trở nên căng thẳng do hai nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống và có cùng tư tưởng chống cộng. Thay vào đó, Đài Loan chỉ hy vọng hai bên giải quyết qua đàm phán, đơn cử như vào ngày 8/9/1956, đại diện Đài Loan đã gặp Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa để thảo luận về việc sửa đổi luật quốc tịch của Việt Nam.
Phía Việt Nam nhấn mạnh rằng việc sửa đổi này là hoàn toàn từ lòng tốt truyền thống của chính quyền Việt Nam đối với người Hoa. Tuy nhiên, Việt Nam không trả lời về những nguyên tắc mà phía Trung Quốc đã đề xuất trước đó như “không truy tìm quá khứ”, “tự do lựa chọn (quốc tịch)” và “tạm hoãn thi hành”.
Sau cùng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa nhượng bộ một phần bằng việc kéo dài thời gian thi hành chính sách, nhưng cơ bản giữ nguyên lập trường. Đại sứ Đài Loan tại Việt Nam Nguyễn Tử Kiện đã đàm phán với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Hữu Châu và hai bên đã đồng ý thỏa thuận kéo dài hạn đăng ký nhập tịch.
Ngày 17/4/1957, Bộ Nội vụ Việt Nam thông báo yêu cầu người Hoa kiều sinh sống trong nước trả lại giấy chứng minh thư cá nhân cũ và đổi lấy thẻ căn cước Việt Nam trước ngày 9/5/1957, nếu không sẽ “bị coi là đang ở trong tình trạng không hợp pháp”.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đồng ý cho sinh viên Hoa kiều trở về Đài Loan học tập, nhưng người Hoa sinh sống tại Việt Nam phải chuyển quốc tịch trước, sau đó mới được đi Đài Loan với tư cách sinh viên Việt Nam. Nếu không muốn chuyển quốc tịch, họ sẽ không được phép trở lại Việt Nam sau này.
Mặc dù Đài Bắc và Sài Gòn đã thiết lập đại sứ quán (nâng cấp từ lãnh sự quán vào năm 1958), tuy nhiên mức độ phụ thuộc của Sài Gòn vào Đài Bắc khá thấp. Thế nên, chính quyền miền Nam dễ thở hơn khi thi hành các chính sách đối với người Hoa.
Mặc dù Đài Bắc liên tục hỗ trợ Sài Gòn trong việc phát triển kinh tế, nhưng trong nhiều cuộc đàm phán về vấn đề người Hoa Việt Nam, họ chỉ đạt được “kết quả trì hoãn thực thi”.
Tình hình này thay đổi sau khi miền Nam bị tấn công nhiều hơn từ phía Bắc vào cuối những năm 1960 và mức độ phụ thuộc của Sài Gòn vào Đài Bắc tăng lên. Sau thời Ngô Đình Diệm, chính quyền Sài Gòn đã nới lỏng trong chính sách Việt hóa người Hoa.
***
Chung-Ting Huang phân tích tác động của chính sách và thái độ cứng rắn của chính quyền Ngô Đình Diệm. Một loạt các chính sách mang tính đồng hóa đã được đưa ra từ năm 1955 đến 1964, biến đổi người Hoa kiều thành người Việt gốc Hoa, thông qua các biện pháp bắt buộc như chuyển đổi quốc tịch, hạn chế nghề nghiệp, cải cách giáo dục, quản lý sinh sản và loại bỏ đặc quyền của người Hoa từ thời thống trị của Pháp. Đây là một phần của chính sách phi thuộc địa hóa mà chính quyền miền Nam thực hiện rất sát sao.
Chú thích:
[1] 黃宗鼎(Chung-Ting Huang), The Policies toward Ethnic Chinese of Republic of Vietnam (1955-1964). https://www.airitilibrary.com/Article/Detail/17267331-200703-201002260085-201002260085-189-249
