Trần Bình Thản
Theo Luatkhoa

Nguy cơ lớn nhất đối với các nhà độc tài từ giữa thế kỉ XX đến gần đây không phải là dân chúng nổi dậy mà là sự lật đổ từ bên trong.
Trong một nghiên cứu xuất bản năm 2012 có tên “The Politics of Authoritarian Rule”, giáo sư chính trị học Milan W. Svolik (khi đó là giáo sư Đại học Illinois và hiện nay là giáo sư Đại học Yale, Hoa Kỳ) chỉ ra trong số 303 nhà độc tài nắm quyền từ năm 1946 đến năm 2008, có đến 205 người bị thay thế do chính các lực lượng bên trong đảng, chính phủ, quân đội, hoặc lực lượng an ninh. Loại lật đổ này thường được gọi là đảo chính (coup d’état). [1]
Những vụ tiêu biểu được xếp vào loại này gồm có Leonid Brezhnev lật đổ Nikita Khrushchev ở Liên Xô năm 1964, quân đội đảo chính lật đổ Tổng thống Ghana Nkrumah năm 1966 hay Tổng thống Tunisia Habib Bourguiba bị lật đổ năm 1987.
Trong số 303 vị kể trên, chỉ có 32 vị là do người dân đứng lên lật đổ, 30 vị buộc phải từ chức do áp lực dân chủ từ công chúng, 20 vị bị ám sát và 16 vị bị loại bỏ do sự can thiệp của nước ngoài.
Do vậy, đảo chính là nỗi lo thường trực và lớn nhất của mỗi nhà độc tài. Nói cách khác, việc bảo đảm sự bền vững của chế độ đồng nghĩa với các hoạt động “chống đảo chính” (coup-proofing). Họ luôn tìm mọi phương cách để loại bỏ các đồng chí không trung thành tuyệt đối với phe phái của mình. Thanh trừng phe phái trở thành hoạt động thường trực và được ưu tiên cao.
Đẫm máu nhất là cuộc “đại thanh trừng” của Stalin năm 1937 – 1938 ở Liên Xô, bắt giữ tới hơn 1,5 triệu người, trong đó có 800.000 người bị xử tử. Số này bao gồm nhiều nhân vật cấp cao của Đảng Cộng sản, tướng lĩnh quân đội, và nhân viên an ninh. Nhiều nhân viên cấp thấp hơn cũng bị lôi ra xét xử.
Cuộc đại thanh trừng khiến cho cả hệ thống bị chấn động, không khí run sợ bao trùm lên toàn bộ các đảng viên thời ấy bởi không ai chắc được mình đã đủ trung thành chưa hay có bị nghi ngờ gì không. [2]
Các chế độ độc tài khác cũng đều mở những cuộc thanh trừng đẫm máu. Phát xít Ý mở rộng cuộc thanh trừng năm 1931. Đảng Ba’ath Syria bắt đầu thanh trừng từ năm 1980.
Thanh trừng phe phái dưới danh nghĩa chống tham nhũng
Trong các chế độ độc tài, rất khó phân biệt giữa việc chống tham nhũng và thanh trừng phe phái. Trên bề mặt, cả hai đều có việc bắt giữ, xét xử những người vi phạm.
Về mặt lý thuyết, chống tham nhũng để cải thiện bộ máy khác với việc tranh trừng phe phái ở chỗ, quy trình truy tố và các phiên tòa diễn ra công khai minh bạch, luật pháp là cơ sở duy nhất để tòa án vận dụng xét xử. Quan trọng hơn, sẽ không có việc “kén” người theo phe phái nào để truy tố.
Chống tham nhũng một cách thực chất sẽ làm bộ máy trong sạch, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền. Theo đó, các hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất và dịch vụ sẽ tăng lên. Về lâu dài, việc hạn chế tham nhũng giúp khơi mạch cho sức phát triển tiềm tàng từ những nhóm xưa nay bị kiềm chế. Những phe thân hữu với nhà cầm quyền giảm khả năng chèn ép những nhóm người khác.
Ngược lại, việc thanh trừng phe phái dẫn đến những hệ quả hoàn toàn trái ngược. Khi ấy thị trường như một bãi mìn tiềm ẩn. Người đang làm ăn kinh doanh không dám mở rộng. Người có ý tưởng không dám bỏ vốn hay liên kết gọi vốn lớn. Một nguyên nhân cơ bản là họ không thể dò được ai thuộc phe nào, bên nào đang lên hay xuống, trong khi nếu liên kết nhầm với phe đang thất thế thì công việc kinh doanh có nguy cơ bị phá sản.
Trong một cuộc thanh trừng phe phái, bầu không khí sợ hãi bao trùm lên toàn xã hội. Người đứng sai phe thì tìm cách chạy chọt. Kẻ cùng phe cũng sợ liên lụy phải yếm thế chờ thời. Hiệu quả làm việc của bộ máy do đó bị giảm sút.
Ở Việt Nam, cuộc thanh trừng phe phái dưới thời Bí thư thứ nhất Lê Duẩn những năm 1960 mang tên “vụ án xét lại chống đảng”. [3] Không chỉ các cán bộ cấp cao, mà cả nhiều công chức cấp thấp cũng bị loại bỏ nếu bị phát hiện đã từng tỏ thái độ phê phán chế độ hay cá nhân ông Lê Duẩn.
Thanh trừng phe phái là hiện tượng phổ biến trong tất cả các chế độ độc tài. Bản chất mờ ám của nó tạo ra nỗi bất an lớn cho toàn hệ thống chính trị, bởi lẽ ít ai có thể chắc chắn mình chưa từng phạm tội gì, hoặc ít nhất chưa từng phụng sự cho một quan chức phạm tội nào.
Dù được đặt dưới danh hiệu gì, mục đích cuối cùng cũng là củng cố quyền lực cho nhà cầm quyền và giảm thiểu rủi ro bị lật đổ từ bên trong.
Chú thích
- Svolik, M. (2012). The Politics of Authoritarian Rule (Cambridge Studies in Comparative Politics). Cambridge: Cambridge University Press. doi:10.1017/CBO9781139176040
- Kotkin S (2017) Stalin, Vol. II: Waiting for Hitler, 1929–1941. London: Penguin.
- NCQT. (2013, August 20). “Chủ nghĩa xét lại” ở Việt Nam DCCH: Bằng chứng mới từ kho tư liệu Đông Đức. Nghiên Cứu Quốc Tế. https://nghiencuuquocte.org/2013/08/20/chu-nghia-xet-lai-vndcch