Hai cách ứng xử với “tóc Phật” Ba Vàng

Nguyễn Anh Tuấn

Theo Luatkhoa

Chùa Ba Vàng. Ảnh: Báo Chính phủ.

Đời sống đức tin Việt Nam sau những cơn biến loạn lịch sử còn đầy khiếm khuyết, như vết thương chưa lành da non. Nhưng nhờ đến công an chỉ khiến vết thương ấy mãi mãi mưng mủ.

Dư luận Việt Nam đang xôn xao chuyện hàng vạn người đổ về chùa Ba Vàng để chiêm bái “xá lợi tóc” 2.600 năm tuổi của Đức Phật, theo giới thiệu của vị sư trụ trì nhiều tai tiếng của chùa – Đại đức Thích Trúc Thái Minh. [1]

Để chứng minh đây đích thực là tóc Phật với năng lực siêu nhiên, chùa Ba Vàng còn cho đăng clip quay cảnh “sợi tóc” chuyển động và khuyến khích Phật tử đảnh lễ, cúng dường để được Đức Phật gia hộ. [2]

Nhiều người đặt nghi vấn về tính xác thực của “sợi tóc” này, và chỉ ra đây có thể đơn thuần chỉ là cỏ khô Pili với đặc tính khi ngâm nước sẽ chuyển động. [3] Loại cỏ này được biết đến ở nhiều nơi, và còn được bán trên các trang thương mại điện tử trong nước. Trong khi đó, chùa Ba Vàng chưa đưa ra được bằng chứng nào bảo vệ quan điểm của mình.

Điều này đã khơi dậy một làn sóng phẫn nộ của công chúng nhắm đến chùa Ba Vàng. Đặc biệt, nhiều người còn đang kêu gọi công an khởi tố vụ án mê tín dị đoan. [4]

Nỗi bất bình của công luận trước một số hiện tượng phản cảm của các cơ sở tôn giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam có lý do chính đáng khi chúng đi ngược lại kỳ vọng của họ về một tôn giáo giàu truyền thống, thiêng liêng và thoát tục. 

Tuy nhiên, việc kêu gọi công an bắt bớ có thể dẫn tới những hệ lụy khôn lường. 

Lợi bất cập hại

Đầu tiên là lời kêu gọi này cổ xúy cho mô hình công an trị vốn đã và đang trở thành xu hướng ở Việt Nam. [5] Trong bối cảnh thiếu vắng những cơ chế giám sát quyền lực của một nền pháp trị nghiêm chỉnh, thói quen tìm lời giải “mì ăn liền” cho mọi vấn nạn xã hội nơi công an và nhà tù sẽ khuyến khích công an lạm quyền. [6]

Tệ hơn, việc công an vào cuộc bắt bớ thay vì đào sâu tìm hiểu vấn đề thông qua thảo luận còn ngăn cản tiến bộ xã hội. 

Hệ lụy thứ hai liên quan trực tiếp đến tự do tôn giáo. 

Cáo buộc một thực hành tôn giáo là mê tín để cấm đoán là cách làm ưa thích của các chế độ vô thần nhà nước (state atheism) nhờ vào tính mơ hồ của khái niệm này. Tuy nhiên, nếu định nghĩa mê tín là tin vào những điều xảy ra mà lý tính hoặc khoa học không thể giải thích được thì thực hành của bất kỳ tôn giáo nào đều ít nhiều có tính mê tín bởi lẽ các tôn giáo luôn gắn với những điều huyền bí không có căn cứ lý tính hoặc khoa học. Chính những điều huyền bí này tạo ra tính cách thiêng liêng cố hữu của các tôn giáo, bất luận khoa học và lý tính đã và đang phát triển đến mức nào. 

Nhà nước cộng sản Việt Nam từng là một chế độ vô thần nhà nước kiểu Marx-Lenin điển hình với các chiến dịch đập phá đền chùa miếu mạo trong quá khứ và nay đang xoay sở tạo dựng một mối quan hệ phù hợp hơn với các tôn giáo. [7][8] Việc kêu gọi chính quyền sử dụng cáo buộc mê tín để trấn áp các thực hành tôn giáo sẽ mở đường cho sự quay trở lại với thời kỳ đen tối trước đây. Nếu việc chiêm bái lá cỏ được cho là  “tóc Phật”  bị trừng phạt, vậy quỳ lạy gốc trôm 200 tuổi hay ôm ấp gốc cây được cho là có gương mặt của Chúa Giê-su có nên bị xử lý không? [9][10] Hoặc mặc dù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể, hầu đồng có nên bị coi là mê tín không, khi mà cũng chẳng có căn cứ lý tính hay khoa học nào cả? [11]

Hai giải pháp khác

Phản đối sự can thiệp của chính quyền không có nghĩa là khuyến khích những thực hành tôn giáo như chiêm bái “tóc Phật” ở chùa Ba Vàng vừa rồi. Thành thật mà nói, chính người viết sẽ không khỏi ái ngại nếu người thân hay bạn bè của mình nằm trong số những người tham gia vào cuộc hành hương đến Ba Vàng theo lời kêu gọi của sư Thích Trúc Thái Minh. 

Tuy nhiên, thay vì viện cầu đến công an như một giải pháp “mì ăn liền” lợi bất cập hại như phân tích ở trên, những ai bất bình và muốn tạo ra sự thay đổi có thể dành thời gian và công sức của mình cho những giải pháp khác.

Đầu tiên là cạnh tranh. 

Cần phân định giữa tôn giáo tổ chức tôn giáo. Một tôn giáo có thể hiện diện trong hình thức của nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau, chẳng hạn như Cơ đốc giáo có Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và vô số các hệ phái Tin lành khác nhau. Trong sự đảm bảo của quyền tự do hiệp hội, các tổ chức tôn giáo cùng tồn tại với cách diễn giải giáo lý và thực hành đức tin khác nhau, giúp cho một tín đồ có quyền lựa chọn tổ chức tôn giáo nào mà mình thấy phù hợp. 

Tương tự như vậy, chẳng có lý do gì để Phật giáo Việt Nam chỉ có một đại diện hợp pháp duy nhất là Giáo hội Phật giáo Việt Nam – mà chùa Ba Vàng là một cơ sở – như hiện nay. Những tổ chức Phật giáo khác, với diễn giải giáo lý và thực hành đức tin của riêng họ, cũng có quyền được hoạt động hợp pháp để Phật tử có thêm sự lựa chọn nếu thấy lề lối sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thông qua những sự kiện như chiêm bái “tóc Phật” vừa rồi, không còn phù hợp với họ nữa. Sự quay lưng của tín đồ sẽ khiến các tổ chức tôn giáo phải tự nhìn nhận lại những thực hành của mình và có những điều chỉnh thích hợp.

Một giải pháp khác đến từ ngôn luận tự do. Chỉ với chút ít tự do trên mạng xã hội, các cuộc thảo luận về “tóc Phật” ở chùa Ba Vàng cũng đã góp phần soi sáng những gì đang xảy ra bằng cách cung cấp thêm thông tin và những cách diễn giải giáo lý khác với chùa Ba Vàng, giúp Phật tử và những người theo dõi tự rút ra kết luận và lựa chọn cho mình. Chỉ tiếc là môi trường báo chí – truyền thông bị kìm kẹp ở Việt Nam đã ngăn những cuộc thảo luận đó được phản ánh rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, nghĩa là hạn chế ảnh hưởng tích cực của chúng. 

Theo dõi những sinh hoạt tôn giáo thời Việt Nam Cộng hòa (1955-1975), có một điểm đặc trưng là các cuộc tranh luận giữa các trí thức tôn giáo với chức sắc giáo hội không chỉ là về cách diễn giải giáo lý, thực hành đức tin mà còn về quan điểm xã hội. Sinh hoạt này giúp các tổ chức tôn giáo tránh khỏi bi kịch trở thành ao tù của giáo điều với những lời chỉ dạy ban phát một chiều của hàng giáo phẩm, mà trở nên dồi dào sinh lực như biển cả nhờ sự va đập của những dòng hải lưu tư tưởng và quan điểm khác nhau. Các tổ chức tôn giáo nhờ vậy cũng tránh bị suy kiệt bởi sức tha hóa (hủ hóa) của quyền lực, vì lẽ uy quyền của các chức sắc luôn bị các vị thức giả trong nội bộ tôn giáo mình thách thức. 

Đáng tiếc là vì nhiều lý do khác nhau, các cuộc tranh luận này dần vắng bóng trong đời sống đức tin hiện nay ở Việt Nam. Khôi phục và khuyến khích văn hóa tranh luận trong các tổ chức tôn giáo – với sự bảo đảm của một nền ngôn luận cởi mở và tự do – không những sẽ giúp đại chúng tín đồ mở mang đời sống đức tin mà còn giúp chính các tổ chức tôn giáo thực hiện quá trình hiện đại hóa thành công để trở nên phù hợp hơn với đời sống hiện đại. 

Những giải pháp này dĩ nhiên không hề đơn giản và còn chịu ảnh hưởng của bối cảnh chính trị đương thời, song vực dậy đời sống đức tin của một xã hội sau những cơn biến loạn với những vết thương còn chưa lành da non không bao giờ là một việc đơn giản. 

Nhờ đến công an và nhà tù chỉ khiến vết thương ấy mãi mãi mưng mủ mà thôi.

Bình luận về bài viết này