Nguyễn Đình Cống
Theo Tiengdan
4.1- Xây dựng nền văn hóa cầm quyền
Việc xây dựng này cần dựa vào các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước về văn hóa. Tuy rằng về việc làm, Đảng và Nhà nước theo CNML nên đã phạm một số sai lầm, nhưng trong các văn bản về văn hóa thì phần nhiều viết đúng và hay. Cán bộ của Đảng và Nhà nước phạm phải lỗi là việc làm và lời nói (hoặc văn bản) cách xa nhau, mà trong lĩnh vực văn hóa sự cách xa đó càng lớn, thậm chí ngược nhau.
Xin kể vài văn bản gần đây:
Về phía Đảng: Năm 1998, hội nghi TƯ 5, khóa 8, có NQ 03; năm 2014, hội nghị TƯ 9 khóa 11 có NQ 33 về văn hóa; năm 2018 có Quy định số 08 về nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong NQ của Đại hội 13 có nội dung khá hay về văn hóa; tháng 11 năm 2021, tổ chức Hội nghị toàn quốc về văn hóa.
Về phía Chính phủ: Năm 1998 có Chương trình 1109, năm 2019 có Nghị định 1847 về văn hóa công sở.
Có Nghị quyết, Nghị định, Quy định, Chương trình gồm những nội dung thiết thực (đậm đà bản sắc dân tộc, tinh thần, thái độ làm việc, chuẩn mực giao tiếp, chuẩn mực đạo đức v.v…) nhưng hình như soạn ra chỉ để tuyên truyền chứ chẳng mấy ai quan tâm. Bây giờ nên tập họp chúng, nghiên cứu kỹ, giữ lại những điều thật sự cần và có thể thực hiện, biên tập thành văn bản nội quy mà việc làm theo là bắt buộc. Nếu có cuộc thi tuyển công chức thì đó là một môn cần đưa vào chương trình. Quy định nếu vi phạm đến lần thứ ba thì bị buộc thôi việc.
Trước đây trong các công sở người ta treo các “đại tự” để nhắc nhở người làm quan, đó là bốn chữ Hán: QUANG MINH CHÍNH ĐẠI. Ngày nay nên tìm ra các chữ Việt có ý nghĩa tương tự để nhắc nhở cán bộ, thí dụ MINH BẠCH LIÊM KHIẾT (thay cho khẩu hiệu: “XYZ quang vinh muôn năm”).
4.2- Đấu tranh để thực hiện dân quyền
Hiến pháp năm 2013 ghi rõ các quyền tự do của công dân (ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình), nhưng trong thực tế các quyền đó còn bị hạn chế hoặc bị ngăn cấm. Trong các quyền vừa nêu thì tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội cần được ưu tiên hàng đầu và để dân có quyền đó là trách nhiệm của Quốc hội.
Có được tự do ngôn luận và báo chí thì những nhà văn hóa, các trí thức của dân mới có điều kiện truyền bá kiến thức để nâng cao dân trí, đặc biệt là dân trí về chính trị. Ở Việt Nam, Phạm Đoan Trang đã xuất bản sách “Chính trị bình dân”. Đó là tài liệu quý, nhằm nâng cao dân trí về chính trị, nhưng sách bị cấm và tác giả bị kết án tù.
Một trong các động lực để phát triển đất nước, trong đó có lĩnh vực văn hóa là hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự. Hiến pháp ghi rõ ràng, công dân có quyền tự do lập hội, nhưng thực tế chỉ được lập ra các hội để đi theo con đường của CNML, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các hội như vậy tham dự vào sự hủy hoại văn hóa. Phải đấu tranh để công dân có thể lập hội thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của CNML và hoạt động độc lập.
4.3- Đưa nền giáo dục vào quỹ đạo nhân văn
Giáo dục là lĩnh vực liên quan chặt chẽ với văn hóa. Đại đa số người nói được rằng giáo dục là vô cùng quan trọng, nhưng hiểu được cái quan trọng đó như thế nào, nằm ở đâu thì không phải ai cũng nắm vững, kể cả một số có cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo. Nhiều người cũng đã thấy, đã ngấm đòn do sự xuống cấp thê thảm của giáo dục.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước tỏ ra rất quan tâm đến cải cách giáo dục, tăng đầu tư cho giáo dục. Nào là “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, nào là NQ số 14, năm 1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, NQ số 29 năm 2013 của BCH Trung ương về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Trong NQ của ĐH 13, đoạn viết về giáo dục, đọc qua nghe cũng khá hợp lý.
Cứ theo văn bản thì đường lối là hay, NQ khá đúng, nhưng đó chỉ là những ý tưởng duy ý chí, xa rời thực tế.
Rồi lại giao quyền và tiền vào tay một số kẻ tham lam, thiếu đạo đức, hữu danh vô thực để họ tự tung tự tác trong việc thực hiện, vì thế nên càng cải cách, càng đổi mới thì càng đưa nền giao dục vào con đường suy thoái, thay cái sai này bằng cái sai khác trầm trọng hơn.
Bây giờ trách nhiệm của lãnh đạo nhà nươc, của Quốc hội là tìm được người thật sự xứng đáng (làm sao tìm được, xin bàn sau) để tổ chức và chỉ đạo công cuộc cải cách, đưa giáo dục thoát ra khỏi vũng lầy suy thoái, xây dựng một nền giáo dục nhân bản, tiến bộ.
4.4-Ngăn cấm, xóa bỏ một số việc tầm phào
Trong xã hội hiện nay có một số việc hoặc do dân tự phát, hoặc có tổ chức, có chỉ đạo, nhưng xét kỹ ra chỉ là những việc tầm phào, làm theo thói quen, đem lại lợi ít, hại nhiều, hiệu quả thấp. Trong dân gian thì đó là những hoạt động mê tín, dị đoan ở quy mô lớn, tập trung một lúc đông người, là các hủ tục trong ma chay, khao mừng, cưới hỏi. Với các tổ chức, các địa phương là những phô trương trong những ngày lễ kỷ niệm chuyện nọ chuyện kia (thí dụ kỷ niệm 60 năm ngày chủ tịch nước về thăm). Trên toàn quốc là phong trào thi đua (mà người ta gắn thêm từ yêu nước (thi dua yêu nước) để tăng ý nghĩa.
Nghĩ rằng, nhiều người đã biết các hủ tục, tôi xin bỏ qua (để tránh dài dòng) mà chỉ viết vài điều về thi đua, một phong trào rất có ý nghĩa và tác dụng trong thời kỳ chiến tranh, còn bây giờ nó cần được đưa vào bảo tàng. Những người cố duy trì thi đua, không thuộc loại trí tuệ kém phát triển thì cũng là loại người thủ đoạn, xúi bẩy người ta thi đua để lợi dụng kiếm chác một thứ gì đó từ những người tham danh hiệu (chạy thi đua).
Ngoài những phiền hà do các thủ tục đem lại thì thi đua tạo điều kiện cho người ta dối trá trong việc tạo thành tích dỏm. Việc này rất tai hại đối với ngành giáo dục.
Tác dụng của thi đua là động viên tinh thần để người ta làm việc tốt hơn (trong lúc kinh tế còn eo hẹp). Nhưng hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường có biện pháp hiệu quả hơn rất nhiếu, đó là trả công theo kết quả lao động. Phong trào thi đua cũng diễn ra theo quy luật phát triển một công nghệ qua các bước: Hình thành, phát triển, đạt đỉnh cao và tàn lụi khi có công nghệ mới, tốt hơn, thay thế.
Như vậy chỉ những người có quyền trả công (lương, thưởng) cho người khác mà không thể đánh giá kết quả lao động của họ (vì thiếu trí tuệ) thì mới phải dựa vào sự bình chọn của tập thể, thông qua thi đua.
Nhà nước còn làm ra luật thi đua (mới nhất là luật số 29 năm 2013). Các văn bản về thi đua hiện nay là sản phẩm của những bộ não đất sét hoặc bã đậu (kể cả người soạn thảo, người thông qua và phê duyệt).
4.5- Hình thành, củng cố tầng lớp tinh hoa của dân tộc
Theo định nghĩa “Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra”. Đứng ở trung tâm “giá trị” ấy là tầng lớp tinh hoa của dân tộc mà phần lớn là trí thức.
Trước năm 1945, trong các làng xã Việt Nam, có một phong tục khá hay về vai trò “tiên chỉ”. Đó là một người được tôn vinh như người đứng đầu dân làng. Thường là người có học vấn cao nhất, không tham gia trực tiếp vào chính quyền địa phương, nhưng thường được hỏi ý kiến về các công việc chung của dân với vai trò cố vấn. Những vấn đề tuy được chính quyền địa phương thông qua nhưng bị tiên chỉ phản đối thì phải đưa ra thảo luận ở hội nghị đại biểu của toàn dân. Tiên chỉ như là đại diện cho văn hóa làng xã. Sau Cách mạng tháng Tám, danh vị tiên chỉ bị phế bỏ.
Hiện nay, ở ta tuy nhiều trí thức có học vị tiến sĩ, có khá đông người được phong học hàm giáo sư, nhưng chưa có tầng lớp tinh hoa có thể đại diện cho văn hóa của dân tộc. Thật ra, tầng lớp tinh hoa không cần lập ra tổ chức hội đoàn mà họ tự gắn kết với nhau thông qua quan hệ cá nhân. Sự tan rã của tầng lớp tinh hoa cũng góp một phần làm hủy hoại văn hóa.
Để xảy ra tình trạng này phần lớn là do lãnh đạo đất nước mắc mưu thâm độc của Trung Cộng. Một mặt, Trung Cộng quan tâm xây dựng tầng lớp tinh hoa của họ; mặt khác, chúng bày mưu cho lãnh đạo Việt Nam tìm cách hạn chế và hủy hoại tầng lớp tinh hoa của Việt Nam để họ dễ bề thao túng và bành trướng.
V. Vài lời tâm sự
Tôi viết bài này với tinh thần “Quốc gia hưng vọng, thất phu hữu trách”. Tôi tự nhận rằng mình không phải chỉ là một thất phu tầm thường mà là một trí thức thứ thiệt, biết làm và có thể làm phản biện. Đã từ lâu, thấy dân tộc vướng vào “hết nạn nọ đến nạn kia”, như là bị “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường”, tôi cố tìm xem nguyên nhân gốc rễ từ đâu. Tại vì có tìm được nguyên nhân gốc mới đề ra được biện pháp hữu hiệu để sửa chữa. Tôi tìm được kết luận do Tuyên giáo Đảng công bố, rằng “Nguyên nhân cơ bản của mọi tiêu cực là sự thoái hóa, biến chất của một số đông cán bộ các cấp các ngành”.
Đoán rằng kết luận ấy do Hội đồng lý luận của Đảng tìm ra. Tôi không đồng ý, cho rằng sự thoái hóa, biến chất của cán bộ chưa phải là nguyên nhân cơ bản, chưa phải là gốc rễ, đó chỉ là nguyên nhân gần, trực tiếp. Tôi tự hỏi, cái gì sinh ra “sự thoái hóa, biến chất ấy” và đi đến kết luận, đó là sự kết hợp và cộng hưởng cùa hai yếu tố: A- Những độc hại trong CNML; B- Một số tiêu cực trong truyền thống của dân tộc.
Sự kết hợp này không những là nguyên nhân gốc làm suy thoái văn hóa, mà còn là nguyên nhân gốc của nhiều tai họa giáng xuống đầu dân tộc. Tôi đã công bố kết luận này trong một số bài báo trước đây, kể cả gửi cho báo Đại biểu Nhân dân của Quốc hôi, ban doc. dcsvn, Hội đồng lý luận trung ương, với hy vọng có được phản biện hoặc nhận xét. Nhưng tôi chưa nhận được một ý kiến nào của những người quan tâm. Tôi hy vọng vào độ chính xác của câu trong dân gian “Nhất ừ (đồng ý), nhì làm thinh (im lặng)”.
_____
Bài liên quan: