Tham nhũng thời Việt Nam Cộng hòa tệ đến mức nào?

Võ Văn Quản

Theo Luatkhoa

Đồ họa: Tùy Phong/ Luật Khoa.

Một trong những điểm phản biện thường thấy trong các thảo luận liên quan đến tình hình tham nhũng hiện tại (đặc biệt liên quan đến các chuyến bay giải cứu và bê bối Việt Á) là họ nhắc lại vấn đề tham nhũng ở thời kỳ chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Hiển nhiên, các lý luận này chỉ là kiểu lý luận “còn bạn thì sao” (whataboutism). Họ lôi một chính thể đã lụi tàn gần 50 năm trước và tìm cách so sánh nó với những vấn đề và sai phạm của một chính thể đang tồn tại; rồi tự nhận rằng họ là chính thể trong sạch, vững mạnh, đỉnh cao của lịch sử Việt Nam. Giá trị thực tế của cách tiếp cận này không có bao nhiêu.

Tuy nhiên, nói về mặt thông tin và tri thức lịch sử, người viết cho rằng chúng ta vẫn còn một câu hỏi lớn. Ngay cả khi Việt Nam Cộng hòa là một chính thể bất ổn và đối diện với hàng trăm cáo buộc tham nhũng từ cả Tây và Ta, chúng ta vẫn cần phải biết họ thực sự tham nhũng như thế nào. 

Bài viết này nhằm tìm kiếm một số điểm khởi đầu với hy vọng trong tương lai, các nghiên cứu, thông tin và tư liệu lịch sử liên quan đến vấn đề này ngày càng phổ biến hơn cho bạn đọc Việt Nam. 

Tham nhũng từ thao túng tiền tệ

Đây là một trong những thông tin lịch sử chính thống đầu tiên mà người viết tìm thấy trong các thông tin liên quan đến “tham nhũng” (corruption) và “sai phạm” (wrongdoing) của các quan chức và hệ thống quan liêu chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ở vấn đề này, người viết không phải là một chuyên gia kinh tế nên sẽ diễn giải theo cách dễ hiểu nhất đối với bản thân người viết lẫn đại chúng. 

Tham nhũng từ thao túng tiền tệ, hiểu đơn giản là việc giới quan chức và những người có tầm ảnh hưởng trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa tận dụng hiểu biết và nguồn lực tiền tệ sẵn có của mình để trục lợi từ quá trình chuyển đổi ngoại tệ. 

Chi tiết hơn, vào năm 1955 Hoa Kỳ thay thế Pháp như là chủ thể hỗ trợ chính cho quá trình tái kiến thiết và phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam. Mỹ (mà cụ thể là USAID – Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) chọn mức tỷ giá 35 đồng Đông Dương (piaster) đổi 1 Mỹ kim. Mức tỷ giá này (có thể thay đổi theo thời gian chứ không cố định hoàn toàn) cho phép chính quyền non trẻ của Việt Nam Cộng hòa dùng đồng tiền của mình để đổi Mỹ kim, mua bán – giao thương với quốc tế một cách ổn định mà không cần quá lo lắng về tình hình chính trị chưa ổn định – vốn có thể ảnh hưởng lớn đến giá trị đồng tiền quốc gia. [1]

Vấn đề ở chỗ là tiền đồng của Việt Nam Cộng hòa không có giá trị thị trường cao đến mức như vậy. Từ đó, hiện tượng này dẫn đến nhiều hệ lụy về quản trị kinh tế và minh bạch tài chính bên trong chính quyền miền Nam.

  • Những nhóm có tài sản, có quyền lực bên trong bộ máy nhà nước (hoặc ít nhất là có quan hệ với những nhóm này) có xu hướng lợi dụng sức mạnh tỷ giá ảo của đồng nội địa và khả năng tiếp cận với nguồn ngoại tệ để chuyển đổi tài sản của mình sang Mỹ kim. 
  • Những nhóm có tài sản và quyền lực tương tự nhưng cố tình tham gia vào các giao dịch thao túng tiền tệ để trục lợi. Hiểu đơn giản, họ dùng tiền Việt Nam Cộng hòa và các mối quan hệ bên trong nhà nước để mua Mỹ kim với mức giá được bảo trợ. Sau đó, số Mỹ kim này lại được mang ra thị trường chợ đen để mua lại tiền đồng với mức giá trị thực (tức có nhiều tiền đồng Việt Nam Cộng hòa hơn), và sau đó số lượng tiền đồng lại tiếp tục được dùng để mua thêm Mỹ kim.

Điều này đồng nghĩa với việc một lượng lớn Mỹ kim bị mua với giá rất rẻ so với thị trường, khiến chính quyền Hoa Kỳ bị hao hụt và thất thoát kinh tế lớn. 

Thậm chí các nhóm chiến binh cộng sản ở miền Nam Việt Nam cũng được cho là hưởng lợi rất nhiều từ chính sách cố định tỷ giá chuyển đổi đồng Việt Nam Cộng hòa quá cao này. [2]

Đến năm 1966, Ủy ban Hạ viện về Hoạt động Chính phủ (House Committee on Government Operations) của Hoa Kỳ đã phải nghiên cứu và công bố báo cáo đầy đủ, chi tiết đầu tiên liên quan đến vấn đề tỷ giá ngoại tệ và các khoản viện trợ dành cho Việt Nam Cộng hòa. Họ kết luận rằng đang có ba cuộc chiến tại Việt Nam: chiến tranh quân sự, chiến tranh chính trị, và chiến tranh kinh tế. [3] Nếu cả hai chính phủ không thể tìm ra cách giải quyết cuộc chiến kinh tế, cả hai cuộc chiến quan trọng đầu tiên sẽ không thể nào có hướng giải quyết.

Tuy nhiên, đáng tiếc là cả hai đời chính thể Việt Nam Cộng hòa đều không thể tìm được điểm chung với chính quyền Hoa Kỳ vì các quan ngại về ổn định kinh tế và yêu sách chung của đại chúng miền Nam Việt Nam. Nguyên do là bởi việc định giá đúng tiền đồng sẽ dẫn đến lạm phát, chi phí tăng cao và sự lo ngại về chính trị lên cao theo. Song điều này cũng đồng nghĩa các vấn đề về lạm dụng tỷ giá, tham nhũng nhờ vào thao túng tiền tệ tiếp tục là một vấn đề của chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến tận những ngày cuối cùng của chính thể này. 

Tham nhũng vặt

Thuật ngữ “tham nhũng vặt”, tạm dịch từ từ chuyên ngành “petty corruption”, dùng để nói về các dạng tham nhũng nhỏ lẻ, có tính cá nhân, vốn có thể xuất hiện ở mọi cấp độ và mọi địa phương. [4]

Dù về lý thuyết, “petty corruption” không tạo ra thiệt hại lớn, loại hình tham nhũng này gây xói mòn niềm tin của quần chúng ở cấp độ cơ sở, tạo ra khoảng cách cho các chính sách của chính quyền trung ương với người dân và chắc chắn gây khó khăn cho hiệu quả hoạt động của toàn bộ bộ máy. 

Theo ghi nhận của nhiều nguồn lịch sử, tham nhũng vặt cũng là một vấn đề rất lớn của Việt Nam Cộng hòa. 

Tờ New York Times không hẳn là một nguồn có cái nhìn trung lập và công tâm cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, các thông tin từ họ cũng phần nào cho thấy được một vài lát cắt thực tế của tình hình miền Nam Việt Nam. [5]

Cụ thể hơn, tờ báo ghi nhận vấn đề tham nhũng vặt tràn lan tại miền Nam Việt Nam với các ví dụ nhỏ như: 

  • Sau giờ giới nghiêm, cảnh sát quốc gia vẫn có thể chở bạn về nhà với giá hai Mỹ kim (cân nhắc thời giá lúc đó); 
  • 25 Mỹ kim cho một tấm bằng chứng nhận tốt nghiệp để tìm việc; 
  • 100 Mỹ kim một năm cho một vị trí bàn giấy trong quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Ở cấp cao hơn, kiểu tham nhũng vặt mà không cần quan tâm đến hệ quả hay khác biệt chính trị này còn làm lợi cho chính đối thủ chính trị của họ: những người cộng sản.

Trong một vụ tham nhũng ở Quảng Ngãi khiến Tỉnh trưởng Ngô Văn Lợi bị bãi nhiệm và 105 viên chức khác bị bắt giữ, nhóm này bị cáo buộc bán hàng tấn gạo đang trong thời kỳ khan hiếm. Không chỉ vậy, họ còn trao đổi xăng dầu, xe máy và kể cả xe jeep/ xe tải quân sự cho lực lượng Việt Cộng trong khu vực. Đổi lại, họ nhận được quế lấy từ các khu rừng do Việt Cộng kiểm soát, rồi mang đi xuất khẩu để kiếm lời từ Mỹ kim. Vụ việc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự toàn vẹn chính sách và an ninh quân sự khu vực.

Nghiên cứu “Vietnam: A Case of Social Alienation” (tạm dịch: “Việt Nam: Một trường hợp tách biệt xã hội”) của tác giả Ton That Thien đăng tải vào năm 1967 có vẻ cũng thừa nhận tình trạng này. [6] Tác giả ghi nhận, ít nhất là cho đến giai đoạn này, có gần một triệu người ở miền Nam Việt Nam nhận lương trực tiếp hay gián tiếp từ các khoản viện trợ của Hoa Kỳ. Các khoản tài trợ khổng lồ cộng với mô hình quản trị còn yếu kém gần như chắc chắn dẫn đến tình trạng lạm dụng và sai phạm tham nhũng trong quản lý – dù lớn hay nhỏ. 

Tham nhũng thể chế 

Cho đến tận ngày nay, quy mô và tầm phủ sóng của vấn đề tham nhũng bên trong mỗi chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn chưa được quan tâm và ghi nhận cụ thể. Ngay cả trong quyển nghiên cứu, bình luận xuất sắc “To build as well as destroy: American nation-building in South Vietnam” (tạm dịch: “Vừa xây vừa phá: Hoạt động kiến quốc của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam”) của tác giả Andrew J. Gawthorpe mà tác giả từng có dịp giới thiệu đến bạn đọc Luật Khoa, nhiều thông tin từ nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quá khó để thật sự hiểu tham nhũng tại miền Nam Việt Nam có trở thành một phần của văn hóa – thể chế của chính quyền này hay không, dù đại đa số tư liệu thừa nhận tham nhũng vặt là một vấn nạn của nhà nước này. [7]

Về mặt tổng quan, nếu loại trừ các đời chính quyền quân quản vô cùng có vấn đề từ năm 1964 đến 1967, cả hai giai đoạn cầm quyền của ông Ngô Đình Diệm lẫn ông Nguyễn Văn Thiệu đều có những nỗ lực trong sạch hóa bộ máy nhà nước. Chẳng hạn như các vụ tham nhũng mà New York Times ghi nhận ở trên, đại đa số chúng đều được chính quyền ông Thiệu công khai và xử lý.

Thực tế của tình trạng tham nhũng và tác hại của tham nhũng đối với sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa rõ ràng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, thay vì chỉ là những giả định đương nhiên đang được sử dụng rất nhiều hiện nay.

Chú thích

1. D.C. Dacy, Foreign Aid, War, and Economic Development: South Vietnam, 19551975 (Cambridge, 1986), 3. 

2. Pho, H. N. (2016). ‘A Billion Dollar Racket’: the United States, South Vietnam, and Global Currency Manipulation during War, 1968–9. The International History Review, 38(4), 765–787. https://doi.org/10.1080/07075332.2015.1132751

3. House Committee on Government Operations, An Investigation of the U.S. Economic and Military Assistance Programs in Vietnam. Forty-second report by the Committee on Government Operations, 89th Cong., 2nd Sess., 12 Oct. 1966 

4. Angelucci, C., & Russo, A. (2022). PETTY CORRUPTION AND CITIZEN REPORTS. International Economic Review, 63(2), 831–848. https://doi.org/10.1111/iere.12567

5. Corruption in South Vietnam seems worse. (1973, September 18). The New York Times. https://www.nytimes.com/1973/09/18/archives/corruption-in-south-vietnam-seems-worse-less-fat-around-its-an-old.html

6. Vol. 43, No. 3, Jul., 1967 of International Affairs (Royal Institute of International Affairs 1944-) on JSTOR. (n.d.). https://www.jstor.org/stable/i324574

7. Võ Văn Quản. (2022). 4 nghiên cứu đáng chú ý về Việt Nam năm 2019 | Luật Khoa tạp chí. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.com/2019/12/4-nghien-cuu-dang-chu-y-ve-viet-nam-nam-2019/

Bình luận về bài viết này